Nghệ sĩ Trấn Thành. Trấn Thành được công chúng biết đến không chỉ với vai trò là một diễn viên hài. Mà còn là MC, diễn viên điện ảnh kiêm diễn viên lồng tiếng nổi tiếng. Cô có vẻ ngoài thanh thoát, tính tình vui vẻ, ít nói, nội tâm sâu sắc. Với sự phổ biến của máy ảnh kỹ thuật số, trào lưu nhiếp ảnh ở Việt Nam nở rộ thời gian gần đây, hình thành nên những diễn đàn nhiếp ảnh lớn thu hút hàng nghìn tay máy chuyên nghiệp cũng như không chuyên. Đội ngũ phó nháy hùng hậu này đã “tác nghiệp” trên rất Đầu hè cái nắng oi ả chói chang như muốn thiêu đốt làn da tôi,1 phần do cả ngày cả năm cả tháng ở trong nhà,ít khi ra đến ngoài,có đi chơi thì cũng đi buổi tối nên da đen nhanh là đúng thôi, Mai Phương Thúy táo bạo khoe ngực trắng nõnẢnh khỏa thân nghệ thuật của Mai Phương Thúy với 10 tư thế tạoMột mình Phân tích nhân vật người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu để thấy vẻ đẹp của người phụ nữ Về đề tài khoả thân nên khuyến khích các nghệ sĩ sáng tác, đòi hỏi mỗi nghệ sĩ phải làm việc rất vất vả, cố gắng mớitạo nên tác phẩm tốt, những tác phẩm “khoả thân” có mỹ cảm, từ đó có thể cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp thuần khiết, tạo hóa tặng Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. sử của chụp ảnh khoả thân nghệ thuật. 1. Khoả thân với một thông điệp. 2. Sự khoả thân gợi tình 3. Khoả thân mang tính khoa học 4. Nhiếp ảnh làm thoã mãn nghệ thuật. 5. Nhiếp ảnh tìm thấy hướng đi của nó. 6. Khoả thân và chủ nghĩa kinh điển 7. Kiểu tài liệu 8. Chụp ảnh thời trang 9. Khoả thân nam 10. Khoả thân nam nữ bình đẳng 11. Phát hiện lại sự khiêu dâm 12. Ảnh khoả thân thương mại Phần 2 2. Định nghĩa các phong cách và sự tiếp cận 1. Cơ hội và lựa chọn 2. Các chủ đề khác nhau 3. Theo đuổi một khái niệm 4. Làm việc chỉ với màu trắng và đen 5. Làm việc với màu sắc 6. Khai thác cơ hội 7. Vượt qua giới hạn 8. Lựa chọn và sử dụng một sự sắp xếp 9. Sử dụng các khối trụ 10. Làm việc với các người mẫu 11. Việc chọn người mẫu 12. Hướng dẫn người mẫu 13. Truyền tải tâm trạng 3. Khai thác phương pháp kĩ thuật Giới thiệu Ánh sáng Ánh sáng ban ngày ở trong nhà Sự sáng tạo với ánh sáng trong nhà Ánh sáng ở xưởng phim Hiệu quả của ánh sáng nhân tạo Ánh sáng bên ngoài Tạc lại ánh sáng và hình bóng. Điều chỉnh các hình bóng Cùng đùa giỡn với các bóng. Phòng trưng báy ánh sáng Các tư thế chụp ảnh Từ đầu tới các ngón chân. Điều chỉnh các tư thế. Tư thế ánh sáng Phòng trưng bày các tư thế chụp ảnh Sự sắc nét và không rõ nét Tiêu điểm và chiều sâu. Tạc lại sự di chuyển một cách mờ nhạt Sự di chuyển một cách lạnh lùng. Di chuyển máy ảnh. Sự sắc nét và phòng trưng bày không rõ nét. Sự cấu tạo và tranh vẽ theo luật xa gần. Những quy tắc cơ bản của thành phần cấu tạo Vị trí của người mẫu. Khai thác hình ảnh theo luật gần xa. Cận cảnh tương phản Hiệu quả của sự méo mó. Thành phần cấu tạo và phòng trưng bày tranh vẽ theo luật gần xa. Các địa điểm vị trí Đánh dấu vị trí tốt nhất. Các cấu thang và các cánh cửa. Sự liên kết với một vị trí. Khoả thân và tự nhiên Phòng trưng bày các vị trí 4. Việc sản xuất sau đó Giới thiệu Crop hình và làm khung ảnh Điều chỉnh mức độ ánh sáng Thay đổi thành màu trắng và màu đen. Sự điều chỉnh màu. Thêm hậu cảnh. Sự chấm sửa sáng tạo Ứng dụng cái lọc ánh sáng Bảo tồn hình ảnh của bạn 5. Phòng trưng bày của thợ chụp ảnh Giới thiệu Lyn Balzer & Toney Perkins Andreas Bitesnich Syivie Blum Almond Chu Giorgio Gruizza Allan Jenkins Ocean Morisset Gavin O’neill Gabriele Rigon Ragne Sigmond Các câu hỏi được hỏi một cách thường xuyên Mục lục Những công nhận. - * Giới thiệu Với tôi, một hình ảnh thành công là một bức ảnh mà nó có sự tác động ngay lập tức vào mắt người xem, là chiếm lấy sự chú ý của họ, và làm cho họ mơ ước, mỉm cười và suy nghĩ, hay đơn giản chỉ là ngắm nó. Tôi có xu hướng là nghĩ rằng kĩ thuật, mặc dù quan trọng, nhưng chỉ đóng vai trò khiêm tốn. Nó chỉ là phần trợ giúp của hình ảnh. Kĩ thuật chụp ảnh giống như một ngôn ngữ. Ngôn ngữ của bạn được chắt lọc bao nhiêu, thì bạn lại có thể biểu hiện được sự tinh tế của chính bạn bấy nhiêu, nhưng nếu bạn không có chuyện gì để nói, không có cảm giác gì phải vượt qua, thì những lời của bạn sẽ vẫn y nguyên như vậy. Vì thế tiêu điểm của tôi trong cuốn sách này là làm cho bạn có ý thức về những dụng ý nghệ thuật trong viêc lựa chọn phương pháp kỹ thuật của bạn hơn là thảo luận về các vấn đề chuyên môn. Cũng có rất nhiều đầu mối để cải thiện bức ảnh của bạn. Nhưng đó là lời chỉ dẫn chính trong việc tập cho mắt bạn nhìn vào sự khoả thân bằng sự hiểu biết về nghề chụp ảnh. Đặt vị trí người mẫu của bạn phía sau ánh sáng để tạc được hình ảnh cơ thể cô ấy với ánh sáng và hình bóng, ví dụ như, bạn không phải làm gì với trang thiết bị của bạn nhưng tất cả mọi thứ phải làm bằng sự hiểu biết và có khả năng sử dụng được ánh sáng, nơi mà bạn để người mẫu của bạn trong khung tương phản sự hiểu biết của bạn về thành phần cấu tạo, hướng dẫn người mẫu của bạn hoà nhập với không khí mà bạn muốn sáng tạo, đó là phụ thuộc vào con mắt và các kĩ năng giao tiếp của bạn, và vv…. Và bạn có thể làm việc dựa trên tất cả các thành phần này ngay cả khi với những loại máy camera cơ bản nhất. Một khi mà bạn đọc về lịch sử của chụp ảnh khoả thân, có rất nhiều cách để làm cho bạn mở mang thêm, và làm cách nào để mang những ánh nhìn đặc biệt và cảm giác này vào hình ảnh, và khi bạn xem xét những phương pháp kĩ thuật sản xuất sau này, bạn có thể sẽ áp dụng và nhìn váo phòng tranh của những thợ chụp ảnh khác, để tiếp cận vào khía cạnh chụp ảnh này, đó là chương cuối cùng mà bạn chưa viết được, tôi chỉ có thể biếu bạn một cuốn sách về các thành phần đầy đủ của chụp ảnh, và cách để giúp bạn khám phá nhiều hơn. Học cách lựa chọn chúng một cách cẩn thận, và tìm ra sự kết hợp hoàn hảo cho các hình ảnh của bạn. Thưởng thức chúng 1. Lịch sử của chụp ảnh khoả thân nghệ thuật. Những bản vẽ trong các hang động thời tiền sử, những bức tượng từ thời kỳ Hy Lạp và thành Rome cổ xưa, và những bức tượng điêu khắc khiêu dâm từ Ấn độ và Châu phi, những hình ảnh phụ nữ khoả thân và những vật dụng cổ xưa trên thế giới là những chứng nhận về sự quyến rũ đầy mê hoặc của cơ thể khoả thân. Sự phát minh của nghệ thuật chụp ảnh thế kỷ 19 đã tạo ra việc miêu tả chân dung mới về con người, và trong khi đó những người bước vào nghề này sớm đã vẽ nên nghệ thuật sơn truyền thống của người Châu Âu về các chủ đề của họ về ánh sáng, thành phần cấu tạo, ánh sáng, và sự khác nhau. 1, Khỏa thân với một thông điệp Nói đến kỹ thuật, trong khi những bức ảnh đầu tiên rất khó để làm, họ chuẩn bị bằng cách là theo kinh nghiệm dựa vào mắt nhìn mà bất cứ ai cũng có thể làm được. Khi nghề chụp ảnh đã trở nên phổ biến, thì có quá nhiều hình ảnh khoả thân cả nam và nữ, đang giới thiệu về hoạt động tình dục, vào một môi trường mới, mặc dù thường ở trong cái lốt tính thẫm mĩ. Những hình ảnh khoả thân này, được chụp ở ánh sáng ban ngày, dường như là đã gây hứng thú thực sự hơn khi so sánh những hình ảnh khoả thân này ở trong tranh. Khi đó người xem biết rằng nghệ thuật đã được miêu tả một cách khá tỉ mĩ trong trong ánh sáng ban ngày của cơ thể người mẫu ở cái cách mà cô ấy hay anh ấy chọn trong việc tiếp cận giữa hai hình thức nghệ thuật sớm bắt đầu tiến triển. Đặc biệt, trong mối hoà hợp giữa các nghệ sĩ và người mẫu trở thành cốt yếu. Nghề chụp ảnh cũng mang lại một sự lựa chọn mà chưa bao giờ trước đó có sẵn trong nghệ thuật thị giác, nếu để khắc hoạ một cảnh đẹp một cách nhanh chóng, khi nó biến mất, và trở nên nổi tiếng như là một bài phóng sự- hoặc là để tạo ra một thành phần cấu tạo mang tính nghệ thuật bằng cân nhắc đặt mỗi thành phần vào đúng nơi trước khi lá chắn sáng được mở. Tuy nhiên, một trong những hình ảnh khoả thân đầu tiên, mà được chụp bởi Hippolyte Bayard 1801-1887, lại chẳng có gì để làm với tính khiêu dâm hay bất cứ sự đánh giá kinh điển nào của hình dáng con người. Trong “Self- portrait Asa Drowned Man, Bayard đã miêu tả chân dung chính anh ta một cách trần truồng trừ một vài mảnh vải che trên người, ngồi ở tư thế sụp xuống hình như chết. Bayard đã sáng tạo ra kỹ thuật chụp ảnh riêng mang phong cách của anh ta cùng một thởi điểm với Louis Daguerre 1787-1851 Nhưng cũng chính Daguerre và “phong cách Daguerre” đó đã nhận được sự thừa nhận từ Chính quyền Pháp. Khi sự phản tác dụng chống lại sự không công bằng, anh ta cảm thấy đã rất tận tâm rồi. Bayard đã sáng tạo nên bức ảnh này. Đó không chỉ là một bức ảnh khoả thân sử dụng chính trị đầu tiên, mà nó còn là một bức ảnh đầu tiên chỉ ra cơ thể con người trong một quang cảnh sân khấu. Sự thật thì nó có thể là bức ảnh đầu tiên về con người khoả thân. Khi mà phương pháp kỹ thuật của Daguerre’s cần một thời gian trưng bày thật lâu và bức ảnh của ông ta về cơ thể nữ giới năm 1839 đã đạt được bằng chụp ảnh một tượng điêu khắc. 2, Sự khoả thân gợi tình Vào đầu những năm 1840, những thấu kính và hoá chất đã được cải tiến tạo nên thời gian chờ ít hơn có thể một phút, hướng tới nghệ thuật vẽ chân dung phổ biến. Một sự tiến bộ khác là máy ảnh với hiệu quả 3 chiều, minh hoạ hình ảnh với 3 kích thước bằng trình bày hình ảnh 2 kích cỡ khác nhau nhẹ nhàng bên cạnh cái kia. Chúng không chỉ sử dụng cho các bức chân dung mà còn cho thấy những hình ảnh khiêu dâm và bí mật thực sự Hippolyte Bayard Bức chân dung tự hoạ của chính anh ta như một người đàn ông chết đuối 1840 biểu hiện nỗi thất vọng của anh ta trong việc thiếu thừa nhận công việc của anh ấy Hai trong những lời đề nghị nhiều nhất của phương pháp kỹ thuật mới này là Moulin xấp xỉ 1800-1868 và Auguste Belloc 1850-1868. Cả hai nhà chụp ảnh người Pháp này dường như rất nổ lực ở mỗi thể loại khác nhau trong lĩnh vực ảnh khoả thân. Khoả thân học thuật, khoả thân tranh ảnh, bắt chước những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng và những hình ảnh gợi tình, thậm chí là khiêu dâm. Những bức ảnh khoả thân mang tính học thuật của họ được sử dụng tham khảo cho các hoạ sĩ như Courbet và Delacroix, và cả hai người này đều là những người tiên phong trong chụp ảnh nghệ thuật đẹp. Sau sự phát minh về thuật chụp ảnh câu hỏi được đặt ra là cơ thể con người nên được mô tả như thế nào. Trong các bức tranh, thông thường thì truyền thống chỉ ra tượng khoả thân chỉ trong các hình thức của huyền thoại, tưởng tượng, tôn giáo và các khung cảnh truyện ngụ ngôn, mà cho mượn cái áo choàng tôn kính cho hành động nhìn vào cái gì đó mà thường có trong các nội dung tình ái. Bước ra khỏi những nội dung này và làm một cách thực sự, ảnh khoả thân nghệ thuật chắc chắn sẽ hướng tới ý nghĩa tình ái nhiều hơn. Rất nhiều thợ chụp ảnh cũng như những người ẩn danh đã thăm dò hoạt động tình dục của con người, và một số bức ảnh của họ vẫn còn gây sốc thậm chí đến ngày nay. Họ chỉ ra không chỉ vẻ đẹp của người mẫu mà còn về nhu cầu, mong muốn tình dục của họ nữa và thường dứt khoát các hoạt động- một chủ đề đó là sự tái xụất hiện trong quang cảnh nghệ thuật giữa thế kỷ 20. Vịêc sản xuất những bức ảnh khoả thân gợi tình và khiêu dâm nhanh chóng phát triễn trên khắp thế giới, thành một ngành kinh doanh phát đạt để mang lại sự ngon miệng cho mỗi bộ phận của cộng đồng, cho dù chính thức ủng hộ hay tồn tại bất hợp pháp, phụ thuộc vào những gì là chấp nhận được theo pháp chế địa phương. Auguste Belloc Phép chụp hình Dage màu bằng tay là một phần của lắp đặt hình nổi 3 chiều của 2, tiêu đề của tên sách là “ femme nue allonggee sur un canape” , được tạo ra vào giữa năm 1850. Những hình ảnh khoả thân như thế này thường được sử dụng và thậm chí được uỷ quyền bởi các thợ sơn, và chúng được để trong album. 3, Khoả thân mang tính khoa học Trong khi thể loại của ảnh gợi tình đang phát triển và các hoạ sĩ đang thảo luận về cách sử dụng con người trong xu huớng mới này, thì những thợ chụp ảnh khác tìm kiếm để chỉ ra các khả năng có thể khác của nhiếp ảnh bằng khoa học và kỹ thuật. Tương ứng, ở Mỹ và Pháp, Eadwead Muybridge 1830-1904 và Etienne-Jules Marey 1830-1904 đã trình bày các thí nghiệm với một khoảng thời gian rất ngắn- một loạt các bức ảnh về các vật thể đang chuyển động tại một khoảng thời gian lập đi lập lại- trong đó cơ thể khoả thân trở thành một vật thể hoàn hảo mang tính nghệ thuật cũng như khoa học. Sự di chuyển bắt được trong khoảng thời gian quá ngăn đó quá nhanh để mắt có thể nhìn được, nền đen cho phép sự so sánh của các vị trí khác nhau mà cơ thể giả vờ đang cử động. Một điều tra mang tính khoa học phổ biến khác của thế kỷ 19 là nhân loại học, các nhà khoa học rất háo hức xây dựng một bản thu âm chụp ảnh về con người mà là trung tâm nghiên cứu của họ. Khi du lịch trở nên dễ dàng hơn, họ rất tò mò về những miền đất bên ngoài đang phát triển. Những bức ảnh từ nước ngoài, thường từ các lục địa của người Châu Phi, Châu Á rất lôi cuốn người xem phương Tây về những hình ảnh của con người khoả thân một phần. Kiểu hình ảnh và sự lôi cuốn về con người và văn hoá xa xôi đã tồn tại trong các bức tranh vẽ và tượng điêu khắc lâu đời trước khi thuật chụp ảnh được phát minh ra. Tuy nhiên, xu hướng mới đã đưa những hình ảnh này một sự đảm bảo có tính xác thực mà có kết quả trong nghệ thuật nhiếp ảnh của mỗi dân tộc. Những bức ảnh con người gần gũi với tự nhiên, cùng với giá trị văn hoá và ý tưởng về tình dục khác nhau, đã trở nên rất phổ biến với người dân Phương Tây về tính khoa học, hệ tư tưởng, và tất nhiên, cũng là những lý do rất nghệ thuật và gợi tình từ những năm 1860 cho đến thế kỷ 20. Mặc dù một số thợ chụp ảnh có cách tiếp cận khoa học, rât nhiều bức ảnh cũng có thể được gọi là “những hình ảnh mang tính dân tộc”. Quan điểm của người nước ngoài, những ý tưởng lãng mạn, và khả năng tưởng tượng tiến sát gần đến phân biệt chủng tộc và dân tộc học, thường nói nhiều hơn về văn hoá của thợ chụp ảnh và sự tưởng tượng của họ hơn là về văn hoá của người nước ngoài và con người bản địa. Cách tiếp cận này có thể được tìm thấy trong tác phẩm của Rudolf hehnert 1878-1948 Và Ernest Landrock 1878-1966. Được sinh ra ở Bohemia rồi một phần của đế quốc Austro-Hungarian, Lehert đã gặp Landrock Eadwead Muybridge Nghiên cứu sự vận động của một vận động viên vào tháng Ba đã được tạo nên tại California năm 1900 là một trong những nghiên cứu vận động của Muybridge. Bị ảnh hưởng bởi tác phẩm của Etience-Jules Marey. Nó đã đạt được cách sử dụng một cách cẩn thận bằng thời gian của máy Camera đa năng. một người Đức, ở Tunisia năm 1904. Hai xưởng chụp ảnh cùng được thành lập tại Tunis, với Lehnert là người chụp ảnh còn Landrock làm giám đốc của xưởng. Sau đó họ cùng làm ăn ở Cairo, bán bưu thiệp và in ấn những phong cảnh sa mạc lãng mạn, những đoàn người Bedouin và các cô gái khỏa thân hoàn toàn hay một phần. Vào những năm đầu của thế kỷ 20, trong khi cơ thể khoả thân có thể được chỉ ra dưới dạng catologue nghệ thuật và khoa học, bức vẽ chân dung thay vì tình dục đơn thuần cũng là cấm kị. Ernest James Bellocq 1873-1949 đã chụp ảnh gái mại dâm tại đại hạt đèn đỏ của New Orleans vào đầu những năm 1900, nhưng dường như chưa bao giờ phải in từ âm kính 10 x 8 inch. Mặc dù các người mẫu tạo dáng một cách đầy tự hào trước máy Camera, khuôn mặt của họ thường bị xé toạc ra, có lẽ để bảo tồn danh tính của họ. Đó chỉ là vào những năm 1960 mà một số lời từ chối đã được phát hiện và xuất bản bởi nhiếp ảnh gia Lee Friedlander. 4, Nhiếp ảnh làm thoả mãn nghệ thuật Kể từ khi xuất hiện, thuật nhiếp ảnh đã có những hiệu quả tích cực cho các thợ sơn hoạ sĩ và nhà điêu khắc, những người mà có rất nhiều cuốn sách với hình ảnh khoả thân ở các tư thế và bố trí khác nhau luôn sẵn sàng. Giữa năm 1880, điều này dẫn tới sự vận động cho việc thừa nhận thuật nhiếp ảnh như là môn nghệ thuật, tên gọi là chủ nghĩa tranh ảnh. Mục tiêu của các nhà làm tranh ảnh là để thành lập việc in ấn ảnh nghệ thuật như là một bộ môn nghệ thuật xác thực. Vì thế họ sáng tạo ra các sản phẩm mà gần gũi như các bức tranh vẽ, về cả nội dung và hình thức. Những bức ảnh như vậy sẽ phải trải qua một bài thử nghiệm về sự chỉ trích ở mỗi góc độ nghệ thuật khác nhau hài lòng vế thành phần cấu tạo, màu sắc, chất lượng, âm thanh, ánh sáng, và phải có sự quyến rũ, và thu hút một số cảm xúc của cá nhân con người đối với nhà nhiếp ảnh. Những hình ảnh của những người mẫu khoả thân không phải là các bức chân dung, thay vào đó chúng làm lộ ra như kể chuyện và chủ nghĩa tượng trưng và nó biểu đạt cảm xúc cũng như mơ ước của nhà nhiếp ảnh, hơn là cố gắng để sản xuất. Rudolh Lehnert Fathma, de la tribu des Ouled Nail, máy quang báo từ khoảng năm 1904. Trong xưởng phim của anh ấy ở Tunis đã chụp rất nhiều những hình ảnh khoả thân khiêu gợi đẹp kì lạ như thế này. Robert Demachy “Tranh đấu” 1904 được in với quá trình của chất Gôm đicromat, mà cho phép sử dụng màu sắc phảng phất. Những nhà vẽ tranh như Demachy đã dùng một đặc ân là tập trung hình ảnh và kỹ thuật in ấn mà làm cho tác phẩm của họ giống như bức tranh. Các hình ảnh to hết cỡ, họ làm mềm ảnh in bằng sử dụng ống kính tập trung sự mềm mại và sửa soạn công phu cho quá trình in ấn. Robert Demachy 1859-1936 là đại diện nổi tiếng nhất của chủ nghĩa tranh ảnh tại Pháp, trong khi Edward Steichen 1879-1973, Frank Eugene 1865-1936, và Heinrich Huhn 1866-1936 là những người đề xuất được biết đến nhiều nhất tại Mỹ, Đức cũng như Australia. Có một cách tiếp cận giống nhau giữa họ đối với cơ thể phụ nữ, không chỉ trong kỹ thuật in ấn mà còn trong xu hướng vẽ chân dung của các người mẫu trong một không gian như giấc mơ. Ý định của họ là để trình bày sự khoả thân ở hình thức lý tưởng hoá để làm cho người xem phản ứng lại với ý nghĩa của hình ảnh hơn là kích thích ham muốn. 5, Nhiếp ảnh tìm thấy hướng đi của nó Xung quanh khoảng năm 1910, mục tiêu của các nhà vẽ tranh là copy cái nhìn và cảm giác của bức tranh và làm nên một chương mới của lịch sử nhiếp ảnh. Phản ứng lại những cách tiếp cận không thuộc về nhiếp ảnh, một số nhiếp ảnh gia đổi hướng tới những gì trong sáng, thẳng tắp Thực tế chính nó đã trở thành vật thể hơn là trở thành sự lý tưởng hoá, sự thăng hoa của nó. Được xem như là một môn nghệ thuật, nhiếp ảnh cũng không cần thiết phải giả, nhái lại sơn vẽ thêm nữa. Những người theo chủ nghĩa tân thời đã chụp ảnh vật thể của họ cho chính phẩm chất của mình cùng với các phương pháp kỹ thuật đặc trưng tới xu hướng thuật nhiếp ảnh. Cơ thể khoả thân được trình bày bay giờ như là quyền cá nhân của họ, được sử dụng ở một cách biểu tượng với sự tác động lẫn nhau của các đường nét và góc cạnh. Với những hoạ sĩ như là hoạ sĩ người Australia Rudolf Koppitz 1884-1936 và hoạ sĩ người Séc Frantisek Drtikol 1883-1961, ảnh khoả thân đã trở thành một dáng vẻ mà tạo nên thành phần cấu tạo mang tính hình học và tương phản, nó vẽ nên sự ảnh hưởng của họ từ xu hướng lập thể, mặc dù họ vẫn sử dụng kỹ thuật in mềm mại. Những nhà nhiếp ảnh khác cũng tìm kiếm chất lượng ảnh không chỉ trong thành phần cấu tạo mà còn trong kỹ thuật in. Trong những năm 1920, phong trào Siêu thực bằng nghệ thuật mắt nhìn và văn hoá được sinh ra như phản ứng chống lại phân biệt chủng tộc trong văn hoá và chính tri Châu âu, các thành viên của phong trào tin rằng, rút cục thì đã dẫn tới chiến tranh Thế giới thứ I. Bị ảnh hưởng bởi Freud, mục tiêu của Chủ nghĩa Siêu thực là để làm lu mờ đi những đường nét giữa ý thức và không có ý thức và bày tỏ hình ảnh khi nó được tiết lộ trong các giấc mơ. Họa sĩ người Pháp Andre Breton 1896-1966 và bạn của anh ta đã sớm phát hiện ra những khả năng của nghệ thuật vốn có trong nhiếp ảnh, đặc biệt là là trong nghệ thuật cắt gián ảnh. Trong công việc của họ, sự hiện hữu của cơ thể con người chụp lên một cách huyền bí và có cảm giác khiêu dâm. Bằng việc sử dụng những hiệu quả cơ bản mà xu hướng mới mang lại- liệu mắt của những con chim hay là độ dài ngắn hay là việc sử dụng của gương soi và kỹ thuật trong phòng tối ví như là sự làm hỏng vì phơi quá- cơ thể có thể sẽ được xem trong cái lốt khác thường. Nhiếp ảnh gia người Hungary Andre Kertesz 1894-1985 sử dụng những cái gương soi làm nền rất đẹp trong chuỗi ảnh “Méo mó” để làm biến dạng đi cơ thể phụ nữ. Tại Mỹ, Edward Weston 1886-1958 đã tạo ra những hình ảnh với các khúc đoạn của cơ thể, thường sử dụng theo hướng viễn cảnh, trong khi cùng một thời điểm đó như là Alfred Stieglitz 1864-1946 và Imogen Cunningham 1883-1976 đã kết hợp hình học và sự trừu tượng trong các cảnh khiêu dâm trong ảnh của họ Andre Kertesz Những người theo chủ nghĩa tân tiến tìm kiếm để mở rộng sự hạn chế của xu hướng ảnh nghệ thuật. “Distortion số 60 1993 là một trong những sêri mà Kertesz đã đặt sự méo mó của chiếc gương trong việc biến đổi người mẫu của anh ấy thành sự sáng tạo trừu tượng. Man Ray Emmanuel Radnitsky, 1890-1976 là người tiên phong ứng dụng kỹ thuật trong sản xuất những bức ảnh siêu thực bằng cách sử dụng các thao tác bằng tay trong phòng tối. Được sinh ra ở Philadelphia, ông bắt đầu sự nghiệp hoạ sĩ của mình là một thợ sơn trước khi chụp ảnh vào năm 1916. Năm 1921 ông chuyển tới Pari, nơi mà ông đã sống hầu hết khoãng thơi gian còn lại của mình. Ông nổi tiếng trong việc phát triển với người yêu của ông ấy và trợ lý Lee Miller quá trình phơi ảnh lâu quá. Ở điều này việc cấm đoán và in ấn được bộc lộ thoáng qua tới ánh sáng và là một kết quả của âm thanh được bảo tồn đặc biệt, thường tạo ra các hiệu quả trong phác thảo đường nét của cơ thể trong các nghiên cứu về thuật khoả thân của anh ấy. Sự nghiệp của Man Ray cũng xoay quanh việc chụp ảnh thời trang và quảng cáo. Những thử nghiệm đồ hoạ và các cuộc thăm dò khác với xu hướng chụp ảnh nghệ thuật và vẫn còn rất phổ biến trong những năm 1940 và 1950, và thường được giới thiệu các thành tố mới, ví dụ như, những cảnh đẹp tự nhiên trong tác phẩm của Nhiếp ảnh gia người Anh Bill Brandt 1904-1983, trong chuỗi chụp các bức ảnh khoả thân trên bờ biển East Sussex của mình, ông ấy đã sử dụng ống kính góc độ rộng chụp cận cảnh, tạo ra sự méo mó dị dạng của cơ thể, và in hình ảnh bằng màu đen trắng với độ tương phản cao. Những cơ thể trắng đáng chú ý này chụp ở miền quê nước Anh dường như là một phần của ảnh đẹp- khỏa thân quay về với tự nhiên- sự tinh tế tự nhiên của nền văn minh. Man Ray Man Ray thì nổi tiếng với các hình ảnh mà bị phơi quá lâu của mình, những bức ảnh được làm bằng cách phơi ra nhanh chóng với ánh sáng âm trước khi nó được lắp hó học. Natacha được chụp khoảng năm 1930, đã tồn tại trong một phiên bản xác thực cũng như trong phiên bản tiêu cực mà được chỉ ra ở đây. Bill Brandt Khoả thân, ở bãi biển East Sussex 1957 là một trong chuỗi các sêri hình ảnh mà trong đó Brandt để người mẫu của mình nằm trên bờ biển đá và tạo nên một hình mẫu giống như điêu khắc cùng với việc sử dụng ống kính góc độ rộng và chỗ đứng nhìn tốt. 6, Khoả thân và chủ nghĩa kinh điển Vẻ đẹp các bức tượng của Hy lạp và Thành Rome cổ xưa đã truyền cảm hứng cho các hoạ sĩ và nhiếp ảnh gia xuyên suốt lịch sử, và đến thế kỷ 20, sức ảnh hưởng cổ điển đã được sử dụng trong nghê thuật, chính trị, và thậm chí trong thơ tình. Đầu thế kỷ, phong trào khoả thân đã ca ngợi vẻ đẹp hình thức của con người với những hình ảnh của những huấn luyện viên thể dục trẻ trung khoẻ mạnh dưới ánh nắng và những cảnh đẹp nguyên sơ, trong khi đó năm 1927, Eli Souyoultzoglou-Seraidari 1899-1998 được biết đến là Nelly’s đã chụp những vũ công người Nga Nikolska và Mona Paiva đang khiêu vũ trần truồng giữa những cây cột của Oarthenon cứ như là họ đang hoá thân vào những kiếp người cổ xưa, những hình ảnh của các vũ công nữ khoả thân của Bà đã tạo nên một vụ rắc rối nhưng cũng không làm mất đi danh tiếng của bà ấy. Khi mà cơ thể con người khoả thân hoàn toàn là chủ đề, tình dục có thể vẫn được tìm thấy trong nhựng bức ảnh chụp riêng tư. Nhiếp ảnh gia người Đức Herbert List 1903-1975 đã chụp ảnh người đàn ông khoả thân đã dựng lên bối cảnh cổ xưa của người Hy Lạp trong kiểu chụp ảnh mà bị ảnh hưởng từ văn chương đương thời, đặc biệt là Jean Cocteau. Những hình ảnh đồng tính luỵến ái với góc độ rộng và độ tương phản cao của người thanh niên được đặt kề với những bức tượng cổ kính cho thấy quan điểm không bị ảnh hưởng bởi thời gian tạo nên mức độ quan trọng bằng nhau như một ngôi chùa và cơ thể. Những bức ảnh của anh ấy sẽ không bị bài mòn bởi thời gian cho tới sau khi ông ấy mất. Trong những năm 1930, chế độ chính trị đã sử dụng những hình ảnh của các vận động viên khoả thân để chỉ ra quyền uy tối cao của họ đối với dân chúng. Cơ thể con người thì rất hoàn hảo và khoẻ mạnh, tâm trí hoàn toàn phục vụ vì mục đích cao hơn là phục vụ đất nước. Các kinh nghiệm của các nghệ sĩ của Dadaists Surrealist được xem như là sự thoái hoá trong các quốc gia như Hít le- Đức và Stalin của Xô viết, và rất nhiều người như thế ở châu Âu và Mỹ. Người khoả thân được chụp bằng phong cách quay trở lại thời kỳ huy hoàng của thời cổ xưa mà ban tuyên truyền rất quan tâm, nó không chỉ gây chú ý là được làm bởi Leni Riefenstahl 1902-2003. Bà ấy đã chụp thế vận hội Olypic Berlin năm 1936 và bộ phim Plympia nổi tiếng của Bà là ca ngợi các vận động viên của Đức trong các bài thơ anh hùng, cuốn sách ảnh của bà ấy với tên gọi “ Schonheit im Olypischen Kampf, thì kém nổi tiếng hơn. Những hình ảnh người đàn ông khoả thân đẹp cùa bà được chụp dưới mặt trời mới hé mở, mang lại cho bà sự đồng ý của Hítle Leni Riefenstahl Lebendige Antike 1936, in màu bạc trong suốt của vận động viên thể thao thi 10 môn người Đức Erwin Huber được Riefenstahl đặt chụp ở tư thế như bức tượng sống cổ xưa, thể hiện được các ý tưởng của Hy Lạp cổ kính xưa. Phần còn lại trong sự nghiệp của Bà. Tuy nhiên, rút ra từ nội dung chính trị của họ, những hình ảnh của Riefenstahl cho tới ngày nay vẫn được ngưỡng mộ về phương pháp kỹ thuật và vẻ đẹp của con người- mặc dù Bà ấy chỉ chụp như thế đó, song nó thật hoàn hảo. Ít sự bất đồng trong các bức ảnh của bà về Nuba, một bộ lạc cổ xưa ở Sudan, mà vẻ đẹp, truyền thống, và lễ nghi của họ Bà đã thu âm được trong nhiều năm của những năm 1960, một lần nữa cùng với sự đặc biệt tập trung vào những người sở hữu cơ thể đẹp tuyệt vời 7, Kiểu tài liệu Sau nỗi kinh hoàng của Thế chiến thứ II, tính ham muốn và tính nhạy cảm được nhấn mạnh nhiều hơn trong các bức tranh khoả thân. Các nghệ sĩ ngày nay còn cho biết tên của các người mẫu của họ, một số người mẫu là vợ của họ. Ví dụ đặc trưng tiêu biểu nhất là Nhiếp ảnh gia người Mỹ Hary Callahan 1912-1999. Ông đã tạo nên rất nhiều nghiên cứu về vợ của mình, đặc biệt là từ năm 1947 tới cuối những năm 1950, việc sử dụng các phương pháp kỹ thuật đa dạng và đặt cả trong nhà và ngoài cảnh đẹp thiên nhiên. Ngày nay sêri ảnh này có một số được đánh giá là phần quan trọng nhất trong tác phẩm của Ông, với các bức ảnh mà nói lên sự mật thiết, sự tin tưởng và tình yêu giữa họ Nghệ sĩ người Mỹ Diane Arbus 1923-1971 cũng chụp hình ảnh khoả thân trong thiên nhiên trong loại tài liệu thực suốt những năm 1950 và 1960. Arbus nổi tiếng vì sự nhạy cảm của cô đối với cá nhân con người người mà sống ngoài rìa xã hội và cho sự quyến rũ mê hoặc của mình với bức tranh kỳ cục và cách ly xã hội, những người trong rạp xiếc. Harry Callahan “Eleanor” 1948, sơn màu bạc trong suốt. Callahan rất ấm áp và nhạy cảm với chân dung của vợ Eleanor trong nhiều năm, và đã tạo ra một trong những nhật ký bằng mắt nhạy cảm đầu tiên, biểu hiện trong nhà của bà, trên con đường thành phố và trong cảnh đẹp. Những người khổng lồ, những người tí hon, người chuyển giới tính, người có vấn đề về tinh thần là một aphần trong phòng trưng bày chân dung của bà tại Mỹ. Ngược lại, những bức ảnh của Bà ấy chụp những kiều dân khoả thân chỉ ra cuộc sống hằng ngày của các gia đình Mỹ, nhưng không bao gồm những người mà Bà vẽ chân dung không quần áo, và kết quả của xu hướng này, người xem không chú ý lắm đến sự khoả thân mà họ quan tâm nhiều hơn đến tư thế ảnh chụp và môi trường xung quanh, Arbus chụp cơ thể con người không hoàn thiện nhưng quan tâm đến hoàn cảnh của họ hơn là ý nghĩa tình dục. Mặc dù sự lạnh lẽo trong phong cách phim tư liệu, nhưng sự thấu cảm thực sự là điều đơn giản trong cách tiếp cận của Bà ấy đối với vật thể bên ngoài dòng chảy của xã hội trong cả sự mẫu mực và sự cảm động. 8, Chụp ảnh thời trang Cuối của những năm 1930, các nhiếp ảnh gia thời trang bắt đầu nhìn các người mẫu không chỉ đơn thuần là các con ngựa mặc quần áo mà treo quần áo của nhà thiết kế lên, mà còn là vật thể chủ đề trong quyền hạn của họ. Làm việc cho tờ Vogue và Harper’s Bazaar, Erwin Blumenfeld 1897-1969 đã thành công trong việc liên kết những người đi tiên phong cho bố cục của bức tranh và việc sử dụng ảnh hỏng vì phơi lâu quá với ảnh thời trang. Công việc của ông ấy mô tả thời trang trong một cách đồ hoạ với sự tương phản của quần áo và cơ thể của người mẫu cho hướng tập trung chính. Ông ấy rốt cuộc chỉ nhấn mạnh đến chính cơ thể của các người mẫu, cho Blumenfeld chụp ảnh một số hình ảnh khoả thân đầu tiên mà chưa bao giờ được thấy trên Vogue trước đó. Cách sử dụng nền của ông ấy rất phù hợp với trang phục và đã tạo ra một không gian tràn khắp hình ảnh. Ông đã phát minh ra vũ trụ của con người mà vẫn còn ảnh hưởng tới xu thế chụp ảnh thời trang ngày nay. Horst P. Paul Horst 1906-1999 là người đầu tiên đạt được tiếng tăm trong công chúng cho nghệ thuật nhiếp ảnh của mình “ the Mainbocher corset” đã xuất hiện trên tạp chí Vogue năm 1939. Mặc dù không phải là hình ảnh khoả thân, nhưng hình dáng đồng hồ cát được nhấn mạnh bởi sự phối hợp màu sắc sáng tối và dải ruy băng buộc quanh ngực cô ấy tạo nên sự khoả thân. Trên đầu tóc được quấn lại như hình cong, người mẫu chấp nhận cái nhìn chằm chằm của chúng ta, giống như tội đồng loã với nhìn trộm người khác. Horst đã chụp rất nhiều hình ảnh khoả thân trong tư thế này, bằng cách sử dụng một vài ánh sáng ở xưởng phim để tạo nên một phong cách hoà hợp giữa ánh sáng và hình bóng. Trong khái niệm thời trang mới này, cơ thể trở thành điểm nhấn quan trọng nhất, và trang phục chỉ là số 2, những hình ảnh của Horst và Blumenfeld minh hoạ mong ước về sự hồi phục của con người và những kích thước nghệ thuật của nó trong khi phục vụ nhu cầu cho chụp ảnh thời trang, các tạp chí ở Atlantic từ tờ báo Vogue và Harper’s Bazzaar cho tới Le Jardin des Modes, cũng khuyến khích loại hình nghệ thuật này, là những hình ảnh về mặc đồ lót, quần áo tắm và ảnh khoả thân. Nhưng không phải mỗi nhiếp ảnh gia thời trang làm những ảnh khoả thân đáp ứng nhu cầu của ảnh thời trang, trong những năm 1940-1950 Irving Penn 1917 đã chụp ảnh khoả thân mà trái lại các tiêu chuẩn thời trang Những hình người béo múp míp cong lại rồi lại trải dài ra. Horst Odalisque 1, được in bạch kim trên vải bạt 1943. Chỉ với một vài đồ dùng cho sân khấu được chọn lựa tốt và ánh sáng như kịch nghệ, Horst đã kiểm soát để gợi lên một khung cảnh quen thuộc xa hoa. Erwin Blumenfeld Cubistic Purple Nude 1949 được sáng tạo bằng cách chồng lên các hình ảnh khác nhau, mang lại những kinh nghiệm thuộc siêu thực vào làng ảnh thời trang. Arno Rafeal Minkkinen “Abbye de Montmajour, Arles, 1983” được sáng tạo trong bối cảnh mà Van Gogh đã sơn. Minkkinen đã nhận xét “đó là phong cảnh sâu lắng của con người mà tôi có thể nói niềm vui lớn ở đây là khi nó đang bước vào bầu trời cảnh đẹp của Van Gogh chỉ trong giây lát” Với cái bụng nhô lên và cái hông nhỏ. Những hình thức đầy vẻ khoái lạc tới các vị thần mà có khả năng sinh sản cổ xưa mà được tìm thấy trên khắp thế giới, những cơ thể phụ nữ đầy đặn mà Rubens sơn, hoặc là những kinh nghiệm không rõ ràng của những người ủng hộ cái mới trước chiến tranh hơn là hình ảnh mang tính thời trang của giữa thế kỷ 20. 9, Khỏa thân nam Cho tới cuối năm 1960, những hình ảnh của cơ thể con người chủ yếu là phụ nữ và được giới đàn ông sản xuất rộng rãi. Những hình ảnh khoả thân được chụp chủ yếu theo quy ước học thuật được thừa kế từ nghệ thuật cổ điển, đặc biệt là ở Châu Âu. Tuy nhiên, sự mất ổn định trong xã hội của những năm 1960 đã hình thành nên cách tiếp cận cơ bản với cơ thể. Trong thể loại chân dung tự hoạ, 3 nhiếp ảnh gia cùng thế hệ đã phá vỡ điều cấm kị, và mặc dù ở những cách khác nhau. Dieter Appelt Đức, 1935-, Jan Saudek Cộng hoà Séc, 1935-, và Arno Rafeal Minkkinen Phần lan, 1945 đã cùng cống hiến hầu hết các tác phẩm của mình không chỉ trong chân dung tự hoạ mà còn ở trong ảnh khoả thân tự hoạ Tác phẩm của Dieter Appelt minh hoạ cơ thể con người bằng một khối rắn chắc như địa chất, là sự hoà trộn của sân khấu, sơn, và điêu khắc, làm khuấy động lên cảm giác mất tính người tàn bạo thông qua nguyên liệu vải rám xù xì và cách cấu tạo viễn cảnh khác thuờng. Jan Saudek, mà sống ở cộng đồng Prague, đã dịch lại nỗi ám ảnh của anh ấy thông qua các bức ảnh, hầu hết trong số đó, anh ấy đã tạo ra nền móng cũ xưa, tương đối nhỏ. Vỏ sơn bị bóc ra từ các bức tường, một cửa sổ nhỏ, và sự cần thiết tuyệt đối cho tự do làm theo ý mình là rất hạn chế khi anh ấy đối mặt với. Saudek đã chụp những cảnh phụ nữ và cặp đôi gợi tình, mà trong đó anh ấy với vai trò là đàn ông. Anh ấy sơn màu các bức ảnh bằng tay, cho họ cái ngắm nhìn và không gian đặc trưng. Trong các hình ảnh của mình, từ nguyên mẫu đầu tiên cho tới nghệ thuật khiêu dâm của những năm 1990, đều có được sự công nhận toàn thế giới từ sau vụ đổ của Iron Curtain năm 1989. Cho tới những năm 1960, cơ thể đàn ông khoả thân được trình bày chỉ như một chiến binh, một người chơi thể thao, hay một người mẫu. Tuy nhiên, cơ thể trở thành một vật thể chính trong sự tiến bộ tương phản ở tác phẩm của Minkkinen, Skeletal, chủ yếu cao 61/2 2m, ông làm méo mó khung của mình, thi thoảng còn thể hiện trong chân dung cắt chiếu. Trong sê ri ảnh chân dung tự họa, những phần cơ thể của minh, đặt một cách tự nhiên và chụp cận cảnh, dường như mất chức năng truyền thống. Thật ngược đời, anh ấy đã hoàn toàn để lộ cơ thể của mình, phơi bày ra cái không hoàn hảo, nhưng lại che mất khuôn mặt, và anh ấy thường đặt mình trong phong cảnh đẹp hoàn hảo của Nordic ở quê hương Phần lan của anh. John Coplans 1920-2003, người Mỹ-Anglo cũng theo bước chân của Minkkinn vào những năm 1980 khi ông ấy chụp cơ thể khoả thân già nua không hoàn hảo của mình, minh hoạ cho khao khát được thể hiện và chụp ảnh một ai đó cứ như là đang nhìn vào gương soi, không mặc đồ, và đe doạ người xem một cách tàn nhẫn với quá trình già đi một cách thô bạo của con người. Trong sự tương phản với tác phẩm của các nhiếp ảnh gia như vậy, thì cũng có một sự quyến rũ thẩm mĩ của đàn ông mà người đại diện tiêu biểu nhất là Robert Mapplethorpe người Mỹ 1946-1998. Với sự điều khiển chuyên nghiêp ánh sáng cao nhất và rộng ở xưởng phim - hay là máy chụp ảnh được định dạng trung bình. Mapplethorpe đã tạo nên sự mượt mà và hoàn hảo một cách cường điệu trong hình tượng hoá cơ thể, và cũng bị ảnh hưởng bởi phong cách nghệ thuật của Horst và nhiếp ảnh gia thời trang George Hoynigen-Huene. Vẻ đẹp điêu khắc - sức mạnh gợi tình đó mà Goerge đã mang đến trong các cơ thể đàn ông khoã thân bằng màu đen trắng không thể sánh kịp. Cũng ở Mỹ, những nhiếp ảnh gia như Greg Gorman 1949-, Bruce Webe1946- và Herb Ritts 1952-2002 vẫn tiếp tục nghiên cứu vẻ đẹp và thú nhục dục trong cơ thể đàn ông. 10, Khoả thân nam nữa bình đẳng Các tạp chí như Playboy năm 1953 và Penthouse năm 1965, kể từ khi mới bắt đầu thành lập, thuật khỏa thân khêu gợi của phụ nữ đã bước vào đời sống mỗi ngày và trở thành đề tài rất thời trang trong bộ phận dân chúng ở Phương Tây và ở Mỹ. Loại hình ảnh khoả thân này có xu hướng là những người đàn ông, họ vừa là nhà sản xuất ảnh, vừa là nhân vật chính. Phong trào nam nữ bình quyền, được bắt đầu từ những năm 1960 và lớn mạnh, có ảnh hưởng rộng nhất trong những năm 1970, phản đối lại truyền thống khai thác đàn ông, và kể từ khi đó đông đảo các nghệ sĩ nữ đã sử dụng chụp ảnh và băng hình để giác ngộ nhận dạng giới tính của họ một cách độc lập khỏi ánh mắt nhìn chằm chằm của đàn ông. Giữa năm 1975 và 1981, Nghệ sĩ người Mỹ Francesca Woodman 1958-1981 đã làm một sê ri về chân dung tự hoạ biểu lộ về giới tính, ham muốn, và mối lo âu của cô ấy. Những bức ảnh của cô ấy thường là một cuộc đối thoại nội tâm với cái gương, lý tưởng hoá vể bản thân mình, vẻ đẹp của chính mình và sự thật rằng thì vẻ đẹp sẽ dần phai nhạt đi. Sự khoả thân trong tác phẩm của Woodman thì khiêu khích hơn. Nó phục vụ như hình ảnh của tâm hồn, một cuốn nhật ký cảm động tự truyện mà kết thúc là khi cô ấy tự tử ở độ tuổi 28. Sự quyết tâm về nam nữ bình quyền đòi sở hữu các hình ảnh của cơ thể phụ nữ là nhân tố căn bản cho các bức chân dung tự hoạ xem xét nội tâm như vậy, và Toto Frima 1953- tại Hà Lan cũng sản xuất được những ví dụ địển hình đẹp về loại tác phẩm này. 11, Phát hiện lại sự khiêu dâm Trong khi đó, các nhiếp ảnh gia như Ralph Gibson 1939- và David Hamiton 1933 ở Anh quốc và Lucien Clergue 1934 ở Pháp đã nghiên cứu tính đa dâm đầy chât thơ trong cơ thể phụ nữ. Clergue thường chụp các người mẫu của anh ấy bên cạnh các thành phần tự nhiên như Robert Mapplethorpe Thomas 1986, các bức ảnh của Mapplethorpe xếp loại từ hoạt động tình dục rõ ràng tới vẻ đẹp siêu phàm. Ông đã đạt được sự thừa nhận trong suốt những năm 1970 với các sáng tác tao nhã, thi thoảng gây sốc, đối với ảnh khoả thân nam. Những con sóng hay những tảng đá và sử dụng triệt để ánh sáng tốt của miền nam Châu âu. Với Gibson, sức mạnh gợi tình của ảnh khoả thân lấy nguồn gốc từ cái cách mà cơ thể mặc đồ hay là từ chi tiết của các cuộc vận động. Tranh vẽ theo luật xa gần với các khúc đoạn của anh ấy chứng minh được tình yêu với cả sự trừu tượng hoá và sự huyền bí. Từ đó chúng ta có thể nói rằng sự khác nhau giữa hình ảnh gợi tình thật và sách báo khiêu dâm chỉ là điều huyền bí. Hai chân được che kín đáo của phụ nữ có thể sẽ gây cảm xúc hơn là những cái chân của phụ nữ khoả thân. David Hamilton, cực kỳ nổi tiếng trong thập niên 1970 và đầu 1980, có ảnh hưởng từ thế hệ các nhiếp ảnh gia không chuyên với hình ảnh cứ như mơ của anh ấy về những cô gái vô tội trẻ trung trong quan điểm khám phá vẻ đẹp gợi tình của họ. Không trang điểm và chỉ sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ánh sáng dịu, và các phụ tùng, gợi lên cảm giác hầu hết mọi người đều có một quan điểm nào đó trong cuộc đời họ. Thành công hơn rất nhiều so với bất cứ ai trước mình, Hamiton hiểu được yêu cầu cho lời hứa này, một khát vọng rằng thuật chụp ảnh quảng cáo cũng thích được cầu khẩn đến nhanh. Nhiếp ảnh gia người Mỹ Joel-Peter Wilkin 1939- dường như đang trong cuộc nghiên cứu về sự huyền bí mà được sử dụng nhiều trong kỹ thuật chụp ảnh như là trong cơ thể con người. Ông ta phát biểu “tôi đã xây dựng lại tính tiêu cực, tôi kích thích nó, tôi thêm các ký hiệu, và tôi tẩy một phần chúng đi, Tôi đang thiết kế lại hình ảnh, tôi làm nó trở nên hùng mạnh hơn, và huyền bí hơn’’. Được sinh ra tại Brooklyn rồi chuyển tới quê mẹ ở Jewish, và quê cha ở Catholic, lúc 6 tuổi Witkin nhìn thấy một tai nạn xe ô tô khủng khiếp mà có dáng dấp trong thế giới ảnh của anh ta. Sau khi học lịch sử nghệ thuật và chụp ảnh, ông đã lao mình vào chế tạo các hình ảnh với bối cảnh rất tỉ mỉ và phức tạp, muợn nguồn cảm hứng như huyền bí, Man Ray, ở Chicago, vẫn sống mãi từ thế kỹ 16 và thế kỷ 17 và, đông đảo các nghệ sĩ tranh ảnh và chủ nghĩa hiện thực thế kỷ 19 – cuộc họp ngắn ngủi của anh ấy với Diane Arbus trước khi vụ tự tử của cô ấy thực sự gây ảnh hưởng tới Man ray. Những bức ảnh của anh ấy về sự méo mó về cơ thể và những phần của xác chết thường là nguyên nhân của việc bị tổn thương. Witkin đã khảo sát tỉ mỉ vũ trụ giới tính của mình và dám chỉ cho chúng ta thấy vẻ đẹp’ của cơ thể mà chúng ta e ngại nhìn vào nó, và luôn luôn là sau khi có sự chuẩn bị lâu dài, ông đã tạo nên các bức ảnh khổ lớn trong xưởng phim. Thực tế trong các cơ thể trần truồng của Witkin là có sự ảnh hưởng rất nhiều trong nghệ thuật chụp ảnh Trong khi Witkin sử dụng máy ảnh mà được sản xuất cách đây hơn một trăm năm, công nghệ kỹ thuật cũng đã có ảnh hưởng lớn đến các cách mà rất nhiều thợ chụp ảnh đã làm các bức ảnh của mình. Những máy camera hiện đại với các chức năng tự động xem như đã giảm thời gian mà máy ảnh cần để chụp một bức ảnh, và một số thì được sản xuất với ngày chụp được ghi rõ, chỉ ra chính xác cái thời điểm mà thấu kính máy ảnh được mở. Điều này cũng khuyến khích sản xuất những cuốn nhật ký bằng mắt thân mật mà mang lại kết quả cho một số nghệ sĩ kinh nghiệm trong một số tình huống để làm các bức ảnh của họ. Ở phương Tây, tác phẩm của các nhiếp ảnh gia Nhật bản Nobuyoshi Araki 1940 thường được nghĩ là chỉ trong mối quan hệ với thông dâm và ác dâm nhưng, bằng cách sử dụng liên tục máy camera mi ni với chỉ định ngày, ông đã tạo ra ước muốn trong cuộc hành trình hấp dẫn của mình. Ralph Gibson Mắt, người đần độn 1975, Với Gibson, việc tạo ra tính năng động trong các dụng ý hình ảnh của anh ấy là loại ra mỗi thành tố cho tới khi không gì còn sót lại trừ những cái anh ấy muốn. 12, Ảnh khỏa thân thương mại Trong những năm 1970 và 1980, các nhiếp ảnh gia thời trang bắt đầu hiện diện một cái mới, hình ảnh đối đầu với cơ thể phụ nữ. Người đi tiên phong trong khía cạnh này là Helmut newton người Đức 1920-2004. Những bức ảnh khoả thân của Newton chỉ đơn thuần là về giới tính, với hàm ý đe doạ, và mặc dù người mẫu của anh ấy có xu hướng được mô tả là một phần của xã hội, mà họ thường được đặt vào, nhìn bên ngoài giống như bài phóng sự trong môi trường bẩn thỉu, liên quan tới khả năng tưởng tượng và điều sùng bái. Công việc làm cho anh ấy ảnh hưởng nặng nề nghệ thuật chụp ảnh thời trang mặc dù một số được cho rằng là có tính khêu gợi cao cho các tạp chí Mỹ và kêu gọi chỉ xuất bản những cái này ở Châu Âu Những năm 1980, Newton đã cởi truồng phụ nữ một cách chủ động và độc lập trong sê ri ảnh với tên gọi là The big Nude’ , trong sê ri ảnh này, phụ nữ khoả thân thực sự và họ rất cao, họ chẳng mặc gì nhưng có trang điểm và mang dày cao gót, The big nude’ được trưng bày bằng hình thức in cỡ lớn, mà nó có xu hướng khiêu khích người xem bằng cách thể hiện những phụ nữ tự tin người luôn có ý thức về vẻ đẹp và sự khêu gợi của mình. Các nhiếp ảnh gia khác cũng theo ví dụ của Newton và cùng có mong ước thúc đẩy ảnh khoả thân tới mức hạn chế. Với nhiều sự lụa chọn từ tạp chí, hay trên ti vi, vidiô, phim ảnh, những hình ảnh nổi bật luôn được sử dụng để túm lấy sự chú ý của công chúng. Chiến dịch của Benetton những năm 1980, là cái nhìn thanh lịch anh hùng của những năm 1990, và bô ảnh hành động khiêu dâm nghệ thuật’ ngay sau khi thành công trong việc gây sốc cho người xem bằng cách sử dụng táo bạo nội dung chính trị trong các hình ảnh mang xu huớng thời trang. Khi nhìn vào chiến dịch công khai của nhiếp ảnh gia người Mỹ này Terry Richarson 1965 Xem xét ở góc độ thẩm mỹ và theo sau các nhiếp ảnh gia mà thường phải chụp nơi thứ 2 cho ảnh hưởng thương mại, thì nghệ thuật chụp ảnh cũng được thiết kế để có, và điều này được áp dụng Lucien Clergue La Churte des Anges’ được in vào năm 2002 và không tiêu biểu lắm với Lucien, chỉ ra có bao nhiêu công việc của một nhiếp ảnh gia có thể rút ra được. Clergue là một người bạn của Picasso, và tác phẩm gần đây nhất của ông ấy rõ ràng chỉ ra mối quan tâm của ông ấy tới nghệ thuật bên cạnh mục đích chụp ảnh. Khỏa thân hay lõa thể là trạng thái mà con người không mặc quần áo hoặc đặc biệt là không che bộ phận sinh dục. Trong một số xã hội, ảnh khoả thân một phần được định nghĩa là không che phủ các bộ phận khác của cơ thể được coi là gợi tình.[1]Eva khỏa thân giữa thiên nhiênẢnh một cậu bé thanh thiếu niên từ mặc quần áo đến khỏa thânBãi tắm tiênTắm nắng tại một bãi biển Đức năm trụi, hoặc việc mất lông trên cơ thể, là một trong những đặc điểm vật lý đánh dấu sự tiến hóa của con người hiện đại về mặt giải phẫu từ tổ tiên hominini. Trong nhiều ngàn năm, con người không mặc quần áo, điều này tiếp tục là chuẩn mực trong một số xã hội bản địa bị cô lập ở vùng khí hậu nhiệt đới. Người ta thường chấp nhận rằng việc áp dụng rộng rãi quần áo xảy ra khi mọi người di cư đến các vùng khí hậu khác cần được bảo vệ khỏi các yếu tố. Ngoài ra, khi các xã hội phát triển từ việc săn bắn hái lượm thành nông dân, quần áo trở thành một phần của sự tiến hóa văn hóa khi các cá nhân và các nhóm trở nên khác biệt bởi địa vị và giai cấp. Trong các nền văn minh sơ khai như Ai Cập, nô lệ, trẻ em và những người khác có địa vị thấp hơn thường tiếp tục khỏa hiểu biết hiện đại về khoả thân rất phức tạp về mặt văn hóa do các ý nghĩa khác nhau được đưa ra với các trạng thái cởi quần áo khác nhau trong các tình huống xã hội khác nhau. Trong bất kỳ xã hội cụ thể nào, ảnh khoả thân được xác định liên quan đến việc mặc quần áo đúng cách, không liên quan đến các bộ phận cơ thể cụ thể được phơi bày. Đối với con người, khỏa thân và quần áo được kết nối với nhiều phạm trù văn hóa như bản sắc, sự riêng tư, địa vị xã hội và hành vi đạo đức.[2] Từ đồng nghĩa và uyển ngữ cho rất nhiều ảnh khoả thân, bao gồm "hoà hợp với thiên nhiên" và "như khi được cha mẹ sinh ra". "Trong trạng thái tự nhiên " cũng được các nhà triết học sử dụng để chỉ trạng thái của con người trước sự tồn tại của các xã hội có tổ các xã hội phương Tây, có hai truyền thống văn hóa trái ngược nhau liên quan đến ảnh khoả thân. Đầu tiên đến từ người Hy Lạp cổ đại, những người coi cơ thể trần trụi là trạng thái tự nhiên và về cơ bản là tích cực. Thứ hai là dựa trên các tôn giáo Abraham, vốn xem việc khỏa thân là đáng xấu hổ và về cơ bản là tiêu cực. Các giáo lý cơ bản của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo nghiêm cấm khỏa thân công khai, và đôi khi cũng cấm cả khỏa thân riêng tư. Tuy nhiên, sự tương tác giữa các truyền thống cổ điển Hy Lạp và các truyền thống sau này đã dẫn đến sự lạc quan của phương Tây, với hình ảnh khỏa thân đại diện cho cả ý nghĩa tích cực và tiêu cực trong tâm lý cá nhân, trong đời sống xã hội và trong các mô tả như nghệ thuật.[3] Vào cuối thế kỷ 19, các nhóm người khỏa thân hoặc người theo chủ nghĩa khỏa thân có tổ chức đã xuất hiện với mục đích đã nêu là lấy lại mối liên hệ tự nhiên với cơ thể và thiên nhiên của con người, đôi khi trong không gian riêng tư mà cả ở nơi công Châu Phi, có một sự tương phản rõ rệt giữa thái độ đối với ảnh khoả thân ở các quốc gia Hồi giáo và thái độ đối với khoả thân ở một số quốc gia thuộc vùng hạ Sahara không bao giờ bị xóa bỏ, hoặc đang khẳng định lại các quy tắc trước khi bị thực dân châu Á, các chuẩn mực liên quan đến khoả thân công cộng phù hợp với các giá trị văn hóa của sự sở hữu xã hội và phẩm giá con người. Thay vì bị coi là vô đạo đức hay đáng xấu hổ, sự trần trụi được coi là vi phạm nghi thức và có lẽ là đáng xấu hổ. Ở Trung Quốc, giữ thể diện là một sức ép xã hội mạnh mẽ. Ở Nhật Bản, hành vi đúng đắn bao gồm truyền thống tắm chung công cộng cả hai giới trước khi tiếp xúc với phương Tây bắt đầu vào thế kỷ 19, và trang phục phù hợp cho nông dân và những người lao động khác có thể là một mảnh khố cho cả nam và nữ. Ở Ấn Độ, các công ước về ăn mặc phù hợp không áp dụng cho các nhà sư trong một số giáo phái Hindu và Jaina giáo, những người từ chối quần áo, coi nó là thứ của thế hội sử dụng quần áo hoặc thiếu nó như một dấu hiệu của địa vị xã hội. Nói chung, các chuẩn mực xã hội liên quan đến ảnh khoả thân đối với nam giới khác với phụ nữ. Mãi đến thế kỷ 17 ở châu Âu, ngực phụ nữ mới trở thành một phần của cơ thể phải được che phủ trước công chúng. Chỉ trong thời đại hiện đại, ảnh khoả thân của trẻ em mới có nghĩa xấu, trước đó chỉ bao hàm sự ngây thơ. Các cá nhân có thể cố ý vi phạm các tiêu chuẩn liên quan đến khoả thân; những người không có quyền lực có thể sử dụng khoả thân như một hình thức phản kháng, và những người có quyền lực có thể áp đặt sự trần trụi lên người khác như một hình thức trừng sửLịch sử của việc khoả thân liên quan đến thái độ xã hội đối với sự trần trụi của cơ thể con người trong các nền văn hóa khác nhau trong lịch sử. Việc sử dụng quần áo là một trong những thay đổi đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ đồ đá mới và sự khởi đầu của nền văn tiền sửSự tiến hóa của việc rụng lôngSự tản nhiệt của cơ thể vẫn là lời giải thích tiến hóa được chấp nhận rộng rãi nhất cho việc rụng lông trên cơ thể ở những thành viên đầu tiên của chi homo, thành viên còn sống sót là người hiện đại.[4] [5] [6] Ít tóc hơn và tăng tuyến mồ hôi, giúp cơ thể họ dễ dàng làm mát hơn khi họ di chuyển từ khu rừng râm mát sang các trảng cỏ. Sự thay đổi môi trường này cũng dẫn đến sự thay đổi trong chế độ ăn uống, từ ăn chay phần lớn chuyển qua săn bắn. Theo đuổi săn thú trên đồng cỏ cũng làm tăng nhu cầu điều chỉnh thân nhiệt.[7] Nhà nhân chủng học và palaeobiologist Nina Jablonski thừa nhận rằng khả năng tản nhiệt cơ thể dư thừa thông qua tuyến mồ hôi eccrine giúp làm cho con người mở rộng đáng kể của não bộ, cơ quan của con người nhạy cảm với nhiệt độ nhất.[8] Do đó, việc mất lông cũng là một yếu tố thích nghi hơn nữa, cả về thể chất và hành vi, khiến con người khác biệt với các loài linh trưởng khác. Một số trong những thay đổi này được cho là kết quả của lựa chọn tình dục, lần đầu tiên được Darwin đề xuất trong Hậu duệ của con người và Lựa chọn liên quan đến tình dục. Bằng cách chọn bạn tình có ít lông, con người đã tăng tốc những thay đổi được bắt đầu bởi chọn lọc tự nhiên. Lựa chọn tình dục cũng có thể giải thích việc số lông còn lại của con người tập trung ở vùng lông mu và nách, là nơi chứa pheromone, trong khi tóc trên đầu tiếp tục được giữ lại để bảo vệ con người khỏi ánh sáng Mặt lời giải thích khác về tình trạng không có lông tương đối của con người cho rằng các loài ký sinh như ve trú ngụ trong lớp lông trên người trở thành vấn đề khi con người trở thành thợ săn, sống trong các nhóm lớn hơn với "căn cứ tại nhà". Sự trần trụi cũng sẽ làm cho việc không có ký sinh trùng trên người trở nên rõ ràng hơn với bạn tình tương lai.[9]Tổ tiên chung cuối cùng của con người và tinh tinh chỉ đi hai chân một phần, thường sử dụng hai chân trước để vận động. Các bà mẹ linh trưởng khác không cần phải mang con nhỏ vì đều có lông để con cái bám vào, nhưng việc mất lông khuyến khích việc đi hai chân một cách hoàn toàn, cho phép các bà mẹ bế con bằng một hoặc cả hai tay. Sự kết hợp giữa không có lông và tư thế thẳng đứng cũng có thể giải thích sự nở rộng của bộ ngực phụ nữ như một tín hiệu tình dục.[6]Với việc mất lông, da sẫm màu, lớp da có nồng độ melanin cao phát triển như một sự bảo vệ khỏi tác hại của tia cực tím. Khi con người di cư ra ngoài vùng nhiệt đới, các mức độ giảm sắc tố khác nhau đã tiến hóa để cho phép con người có thể tổng hợp vitamin D3 với sự hỗ trợ của tia cực tím.[10] [11]Khởi đầu của quần áoViệc mặc quần áo rất có thể là sự thích nghi hành vi phát sinh từ nhu cầu bảo vệ khỏi các yếu tố, bao gồm cả Mặt Trời đối với dân cư bị mất lông và nhiệt độ lạnh khi con người di cư đến vùng lạnh hơn. Theo một nghiên cứu năm 2010 được công bố trên Sinh học phân tử và tiến hóa, ước tính nguồn gốc của quần áo dựa trên phân tích di truyền chỉ ra rằng nguồn gốc của chấy rận trên quần áo đã tiến hóa từ tổ tiên xa xưa của chúng vào một thời điểm giữa năm trước và năm trước. Thông tin này cho thấy việc sử dụng quần áo có khả năng bắt nguồn từ con người hiện đại về mặt giải phẫu ở châu Phi trước khi họ di cư đến vùng khí hậu lạnh hơn.[12] Một nghiên cứu năm 2017 được công bố trên tạp chí Science ước tính rằng con người hiện đại về mặt giải phẫu đã tiến hóa từ đến năm trước.[13]Quần áo phức tạp cần thiết để sống sót trong thời tiết cực lạnh sẽ cần con người phải phát minh ra các công cụ để biến da động vật thành quần áo đồ mài để làm sạch và làm mịn, dao đá mịn để cắt và kim xương để khâu.[14] Những gì được gọi là quần áo ngày nay có thể có nguồn gốc cùng với các loại trang sức khác, bao gồm trang sức, sơn cơ thể, hình xăm và các chỉnh sửa cơ thể khác, giúp "trang điểm" cho cơ thể trần truồng mà không che giấu nó.[15] Theo Leary và Buttermore, trang điểm cơ thể là một trong những thay đổi xảy ra vào cuối thời đại đồ đá cũ đến năm trước, trong đó con người không chỉ hiện đại về mặt giải phẫu, mà còn hiện đại về mặt văn hóa và tâm lý. và có tương tác tượng trưng.[16]Lịch sử cổ đại Cảnh được vẽ trên thạch cao trắng, Triều đại thứ năm khoảng 2500-2300 TCN, nghĩa địa Abusir, Ai CậpỞ Lưỡng Hà cổ đại, hầu hết mọi người đều sở hữu một mặt hàng quần áo duy nhất, và khỏa thân có nghĩa là ở dưới cùng của quy mô xã hội, thiếu phẩm giá và địa vị.[17]Đối với người bình thường, quần áo ít thay đổi ở Ai Cập cổ đại từ thời kỳ đầu triều đại, 3150-2686 TCN cho đến thời trung vương quốc 2055-1650 TCN. Mặc dù bộ phận sinh dục của người trưởng thành thường được che đi, khỏa thân ở Ai Cập cổ đại không phải là vi phạm bất kỳ quy tắc xã hội nào, nhưng thường là một quy ước cho thấy sự thiếu giàu có; những người có thể đủ khả năng để làm như vậy sẽ bao phủ cơ thể nhiều hơn.[18] Cả đàn ông và phụ nữ đều mặc váy có tên là schenti tiến hóa từ những chiếc khố và giống như những chiếc váy hiện đại. Nô lệ và người lao động đều khỏa thân hoặc mặc khố. Chỉ có phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu mới mặc kalasiris, một chiếc váy bằng vải lanh rủ hoặc mờ trong suốt từ trên hoặc dưới ngực đến mắt cá chân.[19] Nữ nghệ sĩ biểu diễn khỏa thân. Trẻ em không mặc quần áo cho đến tuổi dậy thì, vào khoảng 12 tuổi.[20] Mãi đến thời kỳ sau, đặc biệt thời kỳ Tân Vương quốc 1550-1069 TCN, các người hầu trong các hộ gia đình giàu có cũng bắt đầu mặc trang phục tinh tế hơn, và phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu mặc váy và trang trí công phu che ngực. Những phong cách của thời sau này thường được thể hiện trong phim và TV như là quần áo đại diện cho Ai Cập cổ đại trong tất cả các thời kỳ.[19]Khoả thân nam giới được tôn vinh ở Hy Lạp cổ đại theo cách mà không có nền văn hóa nào trước hoặc sau đó đạt tới. Họ coi sự bối rối khi phải cởi quần áo khi chơi thể thao là một dấu hiệu của sự man rợ.[21] Khỏa thân nữ giới nổi lên như một chủ đề nghệ thuật trong thế kỷ thứ 5 TCN, với tranh minh họa những câu chuyện về phụ nữ tắm ở cả trong nhà và ngoài trời. Trong khi các mô tả về phụ nữ khỏa thân có bản chất khiêu dâm, không có sự quy kết nào về tính không phù hợp như trường hợp của những hình ảnh như vậy trong văn hóa phương Tây sau này. Tuy nhiên, những hình ảnh thụ động của khỏa thân nữ phản ánh tình trạng bất bình đẳng của phụ nữ trong xã hội so với những hình ảnh mang tính thể thao và anh hùng của những người đàn ông khỏa thân.[22]Áo toga là rất cần thiết để chứng tỏ trạng thái và cấp bậc của nam công dân tại La Mã.[23] Nhà thơ Ennius khoảng 239-169 TCN tuyên bố, "phơi bày cơ thể trần trụi giữa các công dân là khởi đầu của sự ô nhục công khai". Cicero cũng tán thành những lời của Ennius.[24] Một ngoại lệ là phòng tắm La Mã thermae, vốn có nhiều chức năng tương tác xã hội.[25] Ba thiếu nữ đang tắm rửa. Mặt B của một bình stamnos hình màu đỏ attica, 440-430 áo được sử dụng ở Trung Đông, bao bọc toàn bộ cơ thể, thay đổi rất ít trong nhiều thế kỷ. Một phần, sự nhất quán này xuất phát từ thực tế là quần áo như vậy rất phù hợp với khí hậu bảo vệ cơ thể khỏi những cơn bão cát trong khi cũng cho phép làm mát bằng cách bốc hơi. Ý nghĩa của cơ thể trần trụi trong các xã hội dựa trên các tôn giáo Abraham Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo được định nghĩa bằng một tường thuật sáng tạo trong đó Adam và Eva, người đàn ông và người phụ nữ đầu tiên theo Kinh Thánh của những tôn giáo này, khỏa thân và không hổ thẹn cho đến khi họ ăn trái cấm của Cây trí tuệ về thiện và ác. Ý nghĩa triết học của huyền thoại này trong việc nêu rõ nguồn gốc của sự xấu hổ là không rõ ràng. "Tội lỗi nguyên thủy" không liên quan đến sự trần trụi, mà liên quan đến việc không vâng lời, nhưng phản ứng đầu tiên là che thân bằng lá sung.[26] Trong cả ba tôn giáo, sự khiêm tốn thường chiếm ưu thế ở nơi công cộng, với quần áo che phủ tất cả các bộ phận của cơ thể có bản chất tình dục. Torah đặt ra các luật liên quan đến quần áo và sự khiêm tốn tzniut cũng tách người Do Thái khỏi những người khác trong các xã hội mà họ sống trong đó.[27]Các Kitô hữu ban đầu thường thừa hưởng các quy tắc ăn mặc từ các truyền thống Do Thái. Tuy nhiên, Adamites là một giáo phái Kitô giáo mù mờ ở Bắc Phi có nguồn gốc từ thế kỷ thứ hai, người thờ phượng trong hình khỏa thân, tuyên bố đã lấy lại được sự hồn nhiên của Adam.[28] Quần áo Hồi giáo cho cả nam và nữ là phù hợp với các quy tắc của hajib. Đối với nam giới, quần áo bao phủ khu vực từ thắt lưng đến đầu gối. Đối với phụ nữ, quần áo bao phủ khu vực từ cổ đến mắt cá chân và cũng che cả tóc. Tập tục được gọi là sự che kín của phụ nữ ở nơi công cộng có trước Hồi giáo ở Ba Tư, Syria và Anatolia. Qurʾān cung cấp hướng dẫn về trang phục của phụ nữ, nhưng không phải là những phán quyết nghiêm ngặt; những phán quyết như vậy có thể được tìm thấy trong Hadith. Ban đầu, sự che kín như vậy chỉ áp dụng cho những người vợ của Muhammad; tuy nhiên, sự che chở đã được tất cả phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu chấp nhận sau khi ông qua đời và trở thành một biểu tượng của bản sắc Hồi giáo.[29]Trong những câu chuyện được viết ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ IV TCN, khoả thân được thể hiện như một sự đối nghịch với phẩm giá con người, phản ánh niềm tin rằng "tính nhân văn" trong xã hội Trung Quốc không phải là bẩm sinh, mà là hành vi đúng đắn. Tuy nhiên, sự trần trụi cũng có thể được sử dụng bởi một cá nhân để thể hiện sự khinh miệt đối với những người khác khi có mặt họ. Trong những câu chuyện khác, ảnh khoả thân của phụ nữ, phát ra sức mạnh của âm, có thể vô hiệu hóa dương của các thế lực hung hăng.[30] Khoả thân trong nhà tắm công cộng hỗn hợp 2 giới là phổ biến ở Nhật Bản trước tác động của ảnh hưởng phương Tây, bắt đầu từ thế kỷ 19 và trở nên rộng rãi trong thời kỳ chiếm đóng của Mỹ sau Thế chiến II. Việc tắm chung tiếp tục ở một số lượng nhỏ các suối nước nóng konyoku bên ngoài các khu vực đô thị.[31] Một truyền thống khác của Nhật Bản là những người nữ thợ lặn tự do ama, những người trong năm cho đến những năm 1960 đã thu thập rong biển và động vật có vỏ, chỉ mặc khố. Sự trần trụi của họ không gây sốc, vì phụ nữ nông dân thường làm việc ngực trần trong suốt mùa hè.[32]Lịch sử hậu cổ điển Trinh nữ và trẻ em tranh khoảng năm 1530 của Jan GossaertCuối thế kỷ thứ tư sau CN là thời kỳ của cả hai sự chuyển đổi Kitô giáo và tiêu chuẩn hóa các giáo lý của nhà thờ, đặc biệt là về các vấn đề tình dục. Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân với một người phụ nữ đáng kính bên thứ ba bị thương; chồng, cha, và họ hàng nam. Tội dâm ô với một phụ nữ không có chồng, có thể là gái mại dâm, gái điếm hoặc nô lệ, là một tội lỗi ít hơn vì nó không có nạn nhân nam, trong một xã hội gia trưởng thậm chí có thể được coi là không có nạn nhân.[33] Việc ăn mặc hay khỏa thân của phụ nữ không được coi là đáng kính cũng có tầm quan trọng thấp hơn.[34]Khoảng thời gian giữa thế giới cổ đại và hiện đại, khoảng 500 đến 1450, đã thấy một xã hội ngày càng phân tầng ở châu Âu. Vào đầu thời kỳ này, mọi người khác thuộc tầng lớp thượng lưu sống trong những khu vực gần gũi và không có sự nhạy cảm hiện đại với khoả thân riêng tư, nhưng ngủ và tắm cùng nhau trần truồng với sự ngây thơ thay vì xấu hổ. Nhà tắm La Mã ở Bath, Somerset, được xây dựng lại và được cả hai giới sử dụng mà không có quần áo cho đến thế kỷ 15.[35] Các giáo phái có niềm tin tương tự như người Adam, người thờ phượng trần trụi, xuất hiện vào đầu thế kỷ 15.[36] Sau đó, trong giai đoạn này, với sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu, quần áo ở dạng thời trang là một chỉ số quan trọng của giai cấp, và do đó, sự thiếu hụt của nó trở thành một sự bối rối lớn hơn.[37]Cho đến đầu thế kỷ thứ tám, các Kitô hữu đã được rửa tội ở trạng thái trần truồng để đại diện cho việc họ nổi lên từ bí tích rửa tội mà không phạm tội.[38] Mặc dù có một quan niệm sai lầm phổ biến rằng người châu Âu không tắm trong thời Trung cổ, nhà tắm công cộng thường được cách ly theo giới tính. Ở châu Âu theo Kitô giáo, các bộ phận của cơ thể được yêu cầu che phủ ở nơi công cộng không phải lúc nào cũng bao gồm ngực phụ nữ. Vào năm 1350, ngực nữ giới có liên quan đến việc nuôi dưỡng và chăm sóc yêu thương, nhưng đến năm 1750, các biểu tượng nghệ thuật hở vú là khiêu dâm hoặc được dùng trong y học. Sự khiêu dâm của bộ ngực này trùng hợp với sự buộc tội các phụ nữ là phù thủy.[39]Trong thời trung cổ, các chuẩn mực Hồi giáo trở nên gia trưởng hơn, và rất quan tâm đến sự trong trắng của phụ nữ trước khi kết hôn và chung thủy sau đó. Phụ nữ không chỉ che giấu, mà tách biệt khỏi xã hội, không liên lạc với đàn ông mà không có quan hệ họ hàng gần gũi, sự hiện diện của những người này xác định sự khác biệt giữa không gian công cộng và riêng tư.[40] Mối quan tâm đặc biệt đối với cả Hồi giáo và Kitô hữu sơ khai, khi họ mở rộng quyền kiểm soát đối với các quốc gia trước đây là một phần của đế chế Byzantine hoặc La Mã, là phong tục tắm công cộng địa phương. Trong khi các Kitô hữu chủ yếu quan tâm đến việc tắm hỗn hợp 2 giới, điều này không phổ biến, Hồi giáo cấm khỏa thân phụ nữ khi có mặt các phụ nữ không theo đạo Hồi.[41]Việt NamNguyễn Du trong Truyện Kiều đã miêu tả Vương Thúy KiềuRõ ràng trong ngọc trắng ngàDày dày sẵn đúc một toà thiên nhiênTruyền thuyết Chử Đồng Tử-Tiên Dung nói đến hoàn cảnh hai người gặp nhau khi không mặc đồng Đông Sơn và trên các bức phù điêu khắc tại các đình làng cũng ghi lại nhiều cảnh nam nữ khỏa thân đang giao văn hóa và sinh hoạt phương TâyTrong thần thoại Hy Lạp, dũng sĩ Perseus đã gặp và giải cứu nàng công chúa Andromeda xinh đẹp trong hoàn cảnh nàng bị lột trần và bị xích trên một tảng đá để làm vật hiến tế cho quái vật Cetus. Perseus đã hạ quái vật giải cứu và kết duyên với công thơ sử thi Orlando Innamorato, nàng công chúa Angelica bị xích khỏa thân trên tảng đá hiến tế để hy sinh cho một con quái vật biển nhưng cuối cùng nàng đã được Ruggiero, hiệp sĩ châu Phi tới giải nghệ thuậtKhác với khỏa thân mang tính kích dục, trong nghệ thuật, khỏa thân có hai đặc điểmHướng thiện hướng tới sự hoàn thiện, tận thiện, tận mỹChe giấu che cái không cần lộ, để cho người xem tự tưởng thân trong sự áp đặtTrong một số trường hợp khoả thân được áp dụng như một phương tiện tra tấn để làm nhục và tổn thương tinh thần người khác bởi khi đó nạn nhân dường như buông xuôi mất khả năng đấu tranh với hoàn cảnh vì thế nó bị lên án rộng rãi. Đức quốc xã sử dụng khỏa thân cưỡng bức để cố gắng làm nhục tù nhân trong các trại tập trung trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Điều này từng được mô tả trong bộ phim Danh sách Schindler của đạo diễn Steven biên niên sử từng cho rằng Hãn vương Timur Lenk sau thắng Trận Ankara và bắt được vua Bayezid I. Ông đã sỉ nhục danh dự công chúa Despina xứ Serbia là vợ của Bayezid I qua việc bắt nàng phải trần truồng phục vụ công việc của nữ tỳ tại bữa tiệc chiến thêmCơ thể ngườiẢnh khỏa thânKhiêu dâmCởi trầnCởi truồngChú thích^ Định nghĩa Nudity^ Barcan 2004a, Introduction.^ Barcan 2004a, tr. 11–15.^ Kushlan 1980.^ Wheeler 1985.^ a b Sutou 2012.^ Daley 2018.^ Jablonski 2012.^ Rantala 2007, tr. 1–7.^ Jablonski & Chaplin 2000, tr. 57–106.^ Jablonski & Chaplin 2017.^ Toups và đồng nghiệp 2010, tr. 29–32.^ Schlebusch 2017.^ Gilligan 2010.^ Hollander 1978, tr. 83.^ Leary & Buttermore 2003.^ Batten 2010.^ Mertz 1990, tr. 75.^ a b Mark 2017.^ Altenmüller 1998, tr. 406–7.^ Adams 2005, tr. 57.^ Kosso & Scott 2009, tr. 61-86.^ Habinek & Schiesaro 1997, tr. 39.^ Cicero 1927, tr. 408.^ Fagan 2002.^ Velleman 2001.^ Silverman 2013.^ Livingstone 2013.^ Rasmussen 2013.^ Henry 1999, tr. 475–486.^ Hadfield 2016.^ Martinez 1995.^ Harper 2012.^ Glancy 2015.^ Byrde 1987.^ Lerner 1972.^ Classen 2008.^ Veyne 1987, tr. 455.^ Miles & Lyon 2008.^ Lindsay 2005, tr. 173.^ Kosso & Scott 2009, tr. tham khảoSáchAltenmüller, Hartwig 1998. Egypt the world of the pharaohs. Cologne John 2003. Sexual Development in Childhood. Indiana University Press. ISBN Ruth 2004a. Nudity A Cultural Anatomy. Berg Publishers. ISBN Ruth 2015. “Nudism”. Trong Patricia Whelehan; Anne Bolin biên tập. The International Encyclopedia of Human Sexuality. Wiley-Blackwell. tr. 819–830. doi ISBN John 1972. Ways of Seeing. Penguin. ISBN Pamela 2014. “Nudism”. Trong Forsyth, Craig J.; Copes, Heith biên tập. Encyclopedia of Social Deviance. SAGE Publications. tr. 471–472. ISBN Ken ngày 18 tháng 10 năm 2013. Routledge Guide to Broadway. Routledge – qua Google Barbara L. 1999. “When does sexual play suggest a problem?”. Trong Dubowitz, Howard; Depanfilis, Diane biên tập. Handbook for Child Protection Practice. Sage Publications. ISBN Vern L.; Bullough, Bonnie 2014. Human Sexuality An Encyclopedia. Routledge. tr. 449. ISBN Philip 2010. A Brief History of Nakedness. London, UK Reaktion Books, Limited. ISBN 978-1-86189-729-9. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2019.[liên kết hỏng]Cicero 1927. Tusculan Disputations. Loeb Classical Library 141. XVIII. by J. E. King biên dịch. doi Kenneth 1956. The Nude A Study in Ideal Form. Princeton Princeton University Press. ISBN Albrecht 2008. “The Cultural Significance of Sexuality in the Middle Ages, the Renaissance, and Beyond”. Trong Classen, Albrecht biên tập. Sexuality in the Middle Ages and the Early Modern Times. Berlin Walter de Gruyter. ISBN Julien A.; Rodogno, Raffaele; Teroni, Fabrice 2012. In Defense of Shame The Faces of an Emotion. Oxford University Press. ISBN Paul 2004. The Jains. London Routledge. doi ISBN Garrett G. 2002. Bathing in Public in the Roman World. University of Michigan Press. ISBN L. Fleming; Davidson, Tish 2012. “Voyeurism”. Trong Key, Kristin biên tập. The Gale Encyclopedia of Mental Health. 2 ấn bản 3. Detroit, MI Gale. tr. 1642– Rebecca; Willingham, Emily Jane 2012. “Exhibitionism”. Trong Key, Kristin biên tập. The Gale Encyclopedia of Mental Health. 1 ấn bản 3. Detroit, MI Gale. tr. 598– Leslie 2007. Locker Room Diaries The Naked Truth about Women, Body Image, and Re-imagining the "Perfect" Body. Cambridge, MA Da Capo Press. ISBN Betty N.; Schroeder, Carolyn S. 1995. Sexuality A Developmental Approach to Problems. Springer. ISBN Barbara 2016. “From Lewd to Nude Becoming a Naturist”. Nakedness, Shame, and Embarrassment. Figurationen. Schriften zur Zivilisations und Prozesstheorie. 12. Wiesbaden Springer Edward T. 1989. Beyond Culture. New York Doubleday. tr. 87–88. ISBN 0385124740. OCLC Thomas; Schiesaro, Alessandro 1997. The Roman Cultural Revolution. Cambridge University Christopher 2014. Christopher Hampton Plays 1 Total Eclipse; The Philanthropist; Savages; Treats. Faber & Faber. ISBN Dolf 2014. Sadhus Holy Men of India. Inner Traditions. tr. 176. ISBN Margot; Kalish, DeAnn 2014. “Normal Deviance”. Trong Forsyth, Craig J.; Copes, Heith biên tập. Encyclopedia of Social Deviance. SAGE Publications. tr. 467–468. ISBN Anne 1998. Pictures of Innocence – The History and Crisis of Ideal Childhood. New York Thames & Hudson. ISBN 978-0-500-28048-5. OL Anne 1978. Seeing Through Clothes. New York Viking Press. ISBN Nina G. 2006. Skin A Natural History. Berkeley University of California Press. ISBN Steven ngày 27 tháng 8 năm 2012. Framing Pictures. Edinburgh University Press – qua Google Tim; Pile, Steve biên tập 2003. Social Change. Wiley. ISBN Cynthia; Scott, Anne biên tập 2009. The Nature and Function of Water, Baths, Bathing, and Hygiene from Antiquity Through the Renaissance. Boston Brill. ISBN Robert E. 1972. The Heresy of the Free Spirit in the Later Middle Ages. Berkeley, CA University of California James E. 2005. Daily Life in the Medieval Islamic World. Daily Life through History. Westport, Conn Greenwood E. A. biên tập 2013. The Concise Oxford Dictionary of the Christian Church ấn bản 3. Oxford University Press. ISBN Gabrielle Kirk; Swaak-Goldman, Olivia 2000. Substantive and Procedural Aspects of International Criminal Law The Experience of International and National Courts Materials. 2. Brill. ISBN Joshua J. ngày 27 tháng 3 năm 2017. “Fashion and Dress in Ancient Egypt”. Ancient History 1995. “Naked Divers A Case of Identity and Dress in Japan”. Trong Eicher, Joanne B. biên tập. Dress and Ethnicity Change Across Space and Time. Ethnicity and Identity Series. Oxford Berg. tr. 79–94. doi ISBN Barbara 1990. Red Land, Black Land Daily Life in Ancient Egypt. Peter Bedrick Books. ISBN Margaret R.; Lyon, Vanessa 2008. A Complex Delight The Secularization of the Breast, 1350-1750. University of California Press. ISBN Richard A.; Silbaugh, Katharine B. 1996. A Guide to America's Sex Laws. University of Chicago Press. ISBN Manfred 2004. Nackt; Kulturgeschichte eines Tabus im 20. Jahrhundert [Nudity A Cultural History of a taboo in the 20th century] bằng tiếng Đức. Vienna Christian Brandstätter Verlag. ISBN Eric 2013. A Cultural History of Jewish Dress. A&C Black. ISBN 978-0-857-85209-0. The Five Books of Moses...clearly specify that Jews must adhere to a particular dress code-modesty, for example, and fringes. Clothing, too, served as a "fence" that protected Jews from the profanities and pollutions of the non-Jewish societies in which they dwelled. From this angle, Jews dressed distinctively as God's Dennis Craig; Sparks, William 1986. The Naked Child Growing Up Without Shame. Elysium Growth Press. ISBN Peter 2004. The Undressed Art Why We Draw. New York Alfred A. Knopf. ISBN Scott Manning 2003. “New World Contacts and the Trope of the 'Naked Savage”. Trong Elizabeth D. Harvey biên tập. Sensible Flesh On Touch in Early Modern Culture. University of Pennsylvania Press. tr. 124–140. ISBN Tom 1999. Ancient Egyptian Fashions. Mineola, NY Dover. ISBN Karl Eric 1997. Empire of Ecstasy Nudity and Movement in German Body Culture, 1910-1935. University of California Press. ISBN Krista K. 2018. Naked The Dark Side of Shame and Moral Life. New York Oxford University Press. doi Paul biên tập 1987. A History of Private Life From Pagan Rome to Byzantium. A History of Private Life. 1 of 5. Cambridge, Mass Belknap Press of Harvard University Press. ISBN articlesAlaimo, Stacy 2010. “The naked word The trans-corporeal ethics of the protesting body”. Women & Performance A Journal of Feminist Theory. 20 1 15–36. doi ISSN Katherine R.; Gary, Emily A.; Lavender-Stott, Erin S.; Kaestle, Christine E. 2018. “'I Walked in on Them' Young Adults' Childhood Perceptions of Sex and Nudity in Family and Public Contexts”. Journal of Family Issues. 39 15 3804–3831. doi Jonathan ngày 1 tháng 6 năm 2007. “The undress of the mad poor in England, Part 2” PDF. History of Psychiatry. 18 2 131–156. doi ISSN 0957-154X. PMID Ruth 2001. “The Moral Bath of Bodily Unconsciousness Female Nudism, Bodily Exposure and the Gaze”. Continuum. 15 3 303–317. doi Ruth 2004b. “Regaining what Mankind has Lost through Civilisation Early Nudism and Ambivalent Moderns”. Fashion Theory. 8 1 63–82. doi Alicia J. 2010. “Clothing and Adornment”. Biblical Theology Bulletin Journal of Bible and Culture. 40 3 148–59. doi Penelope 1987. “'That Frightful Unbecoming Dress' Clothes for Spa Bathing at Bath”. Costume. 21 1 44–56. doi Mark; Tarle, Lia; Sandgathe, Dennis; Allan, Alexander 2016. “Faunal evidence for a difference in clothing use between Neanderthals and early modern humans in Europe”. Journal of Anthropological Archaeology. 44 235–246. doi hdl2164/ Mollie B. 1992. “Bare Facts and Naked Truths Gender, Power, and Freedom of Expression”. Free Speech Yearbook. 30 129–48. doi D. 2011. “Theorising Nudist Equality An Encounter Between Political Fantasy and Public Appearance” PDF. Antipode. 43 2 326–357. doi Beth A. tháng 12 năm 2001. “Nudity and Framing Classifying Art, Pornography, Information, and Ambiguity”. Sociological Forum. Springer. 16 4 603–632. doi JSTOR Peggy M. J.; van den Eijnden1, Regina J. J. M.; Vanwesenbeeck, Ine; ter Bogt, Tom F. M. 2016. “The Relationship Between Endorsement of the Sexual Double Standard and Sexual Cognitions and Emotions”. Sex Roles. New York. 75 7–8 363–76. doi PMC 5023751. PMID T 2012. “The Changing Functions of Traditional Dance in Zulu Society 1830–Present”. The International Journal of African Historical Studies. 45 3 403– Stine; Thing, Lone Friis 2020. “A Shameful Affair? A Figurational Study of the Change Room and Showering Culture Connected to Physical Education in Danish Upper Secondary Schools”. Sport, Education and Society. 25 2 161–72. doi Ian 2010. “The Prehistoric Development of Clothing Archaeological Implications of a Thermal Model”. Journal of Archaeological Method & Theory. 17 1 15–80. doi Jennifer A 2015. “The Sexual Use of Slaves A Response to Kyle Harper on Jewish and Christian Porneia”. Journal of Biblical Literature. 134 1 215–29. doi Kyle 2012. “Porneia The Making of a Christian Sexual Norm”. Journal of Biblical Literature. 131 2 363–83. doi JSTOR Eric 1999. “The Social Significance of Nudity in Early China”. Fashion Theory. 3 4 475–486. doi Nina G.; Chaplin, George 2000. “The Evolution of Human Skin Coloration”. Journal of Human Evolution. 39 1 57–106. doi PMID Nina G.; Chaplin, George 2017. “The Colours of Humanity The Evolution of Pigmentation in the Human Lineage”. Philosophical Transactions of the Royal Society B Biological Sciences. 372 1724 20160349. doi PMC 5444068. PMID Robin 2004. “Topfreedom A rhetorical analysis of the debate with a bust”. Women and Language. Urbana. 27 1 68– Bjørn Tore; Mæhle, Martine; Oland, Øyvind; Haugen, Tommy 2017. “Being Together in the Locker Room Is Great, but Showering Together – Just Forget It! - The Janus Face of the Wardrobe Practice in Physical Education”. International Journal of Learning, Teaching and Educational Research. 16 10 41–57. doi James A. 1980. “The Evolution of Hairlessness in Man”. The American Naturalist. 116 5 727–729. doi JSTOR Mark R; Buttermore, Nicole R. 2003. “The Evolution of the Human Self Tracing the Natural History of Self-Awareness”. Journal for the Theory of Social Behaviour. 33 4 365–404. doi Channing 1963. “Swimming Classes in Elementary Schools on a City-Wide Basis”. Journal of Health, Physical Education, Recreation. 34 5 35–36. doi Barry 2016. “On the Loss of Nudity in the Men's Locker Room”. Psychological Perspectives. 59 1 93–108. doi Laura 1975. “Visual Pleasure and Narrative Cinema”. Screen. 16 3 6–18. doi Maheshvari 2009. “'Topless' Tradition for Tourists Young Zulu Girls in Tourism”. Agenda. 23 79 38–48. doi không hoạt động ngày 26 tháng 5 năm 2020.Quản lý CS1 DOI không hoạt động tính đến 2020 liên kếtNkosi, Gugulethu Sebenzile 2013. Umkhosi Womhlanga Reed Dance as a tourism enterprise in KwaZulu-Natal Perceptions, Policies and Practices PhD. University of Zululand. hdl10530/ Paul 1995. “Childhood exposure to parental nudity, parent‐child co‐sleeping, and "primal scenes" A review of clinical opinion and empirical evidence”. Journal of Sex Research. 32 1 51–63. doi ISSN Paul; Olmstead, Richard; Abramson, Paul R.; Pendleton, Laura 1998. “Early Childhood Exposure to Parental Nudity and Scenes of Parental Sexuality 'Primal Scenes' An 18-Year Longitudinal Study of Outcome”. Archives of Sexual Behavior. 27 4 361–384. doi ISSN 0004-0002. PMID M. J. 2007. “Evolution of nakedness in Homo sapiens”. Journal of Zoology. 273 1 1–7. doi Ryen 2011. “The Auto-Authentication of the Page Purely Written Speech and the Doctrine of Obscenity”. William & Mary Bill of Rights Journal. Susan J. 2013. “Re-Casting the Veil Situated Meanings of Covering”. Culture & Psychology. 19 2 237–58. doi và đồng nghiệp ngày 3 tháng 11 năm 2017. “Southern African ancient genomes estimate modern human divergence to 350,000 to 260,000 years ago”. Science. 358 6363 652–655. Bibcode2017Sci...358..652S. doi PMID Mary-Ann 2017. “'Nudists at Heart' Children's Nature and Child Psychology in the Postwar Canadian Nudist Movement”. Journal of the History of Childhood and Youth. Baltimore John Hopkin's University Press. 10 2 228–247. doi ProQuest Wesley; Kilburn, John 1996. “Ritual Disrobement at Mardi Gras Ceremonial Exchange and Moral Order”. Social Forces. 75 2 423–58. doi JSTOR Nina 1991. “The Shame of Being Naked”. Off Our Backs. 21 8 6–7. JSTOR H. W. ngày 1 tháng 9 năm 1980. “A Modest Test of Cross-Cultural Differences in Sexual Modesty, Embarrassment and Self-Disclosure”. Qualitative Sociology. 3 3 223–241. doi ISSN Glenn; King, Michael tháng 6 năm 2009. “Naturism and sexuality Broadening our approach to sexual wellbeing”. Health & Place. 15 2 439–446. doi PMID Francis 1995. “Some aspects of nudity in theatre dance”. Dance Chronicle. 18 2 303–310. doi Shizuyo 2012. “Hairless mutation a driving force of humanization from a human-ape common ancestor by enforcing upright walking while holding a baby with both hands”. Genes to Cells. 17 4 264–272. doi PMC 3510307. PMID M. A.; Kitchen, A.; Light, J. E.; Reed, D. L. 2010. “Origin of Clothing Lice Indicates Early Clothing Use by Anatomically Modern Humans in Africa”. Molecular Biology and Evolution. 28 1 29–32. doi ISSN 0737-4038. PMC 3002236. PMID Michael 2019. “Dirty Rotten Shame? The Value and Ethical Functions of Shame”. Journal of Humanistic Psychology. 59 2 232–51. doi Schendel, Willem 2002. “A Politics of Nudity Photographs of the 'Naked Mru' of Bangladesh” PDF. Modern Asian Studies. 36 2 34. doi Melissa R. 2005. “Breastfeeding Legislation in the United States A General Overview and Implications for Helping Mothers”. LEAVEN. 41 3 51–54. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm J. 2001. “The Genesis of Shame”. Philosophy and Public Affairs. 30 1 27–52. doi Martin S; Williams, Colin J. 2010. “Bare Bodies Nudity, Gender, and the Looking Glass Body”. Sociological Forum. 25 1 47–67. doi Keon ngày 1 tháng 3 năm 2018. “Naked and Unashamed Investigations and Applications of the Effects of Naturist Activities on Body Image, Self-Esteem, and Life Satisfaction”. Journal of Happiness Studies. 19 3 677–697. doi ISSN 1985. “The loss of functional body hair in man the influence of thermal environment, body form and bipedality”. Journal of Human Evolution. 14 14 23–28. doi James Q. ngày 1 tháng 4 năm 2004. “The Two Western Cultures of Privacy Dignity versus Liberty”. The Yale Law Journal. 113 6 1151–1221. doi JSTOR Jeffrey 2003. “Contested waters A History of Swimming Pools in America”. ProQuest Dissertations & Theses Global. ProQuest JH 2008. “Got milk? Not in public!”. International Breastfeeding Journal. 3 1 11. doi PMC 2518137. PMID tứcAdams, Cecil ngày 9 tháng 12 năm 2005. “Small Packages”. Isthmus; Madison, Wis. Madison, Wis., United States, Madison, Wis. tr. 57. ISSN 1081-4043. ProQuest Shefali ngày 19 tháng 5 năm 2008. “Modest proposal A Vermont town bucks nakedness; skinny-dipping spurs an outbreak of nudity; the fanny-pack man”. Wall Street David ngày 22 tháng 9 năm 2017. “When boys swam nude in gym class”. Democrat and A. ngày 5 tháng 2 năm 2016. “Germans Most Likely to Go Nude”. The Laura; Whittenburg, Zachary ngày 1 tháng 4 năm 2014. “Baring It All”. Dance Justin ngày 17 tháng 3 năm 2014. “Met officers subject 4,600 children to strip searches over five years”. London Evening Standard. tr. Tiyana 2014. “Simply the Breast”. Flare Toronto. 36 10 Oct 2014 70– Jamie ngày 29 tháng 6 năm 2015. “Public nudity in Oregon Where you can and can't legally be naked in the open”. The Warren ngày 4 tháng 6 năm 2004. “ Says Abu Ghraib Abuse Could Constitute War Crime”. The New York Times. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm Nina G. ngày 1 tháng 11 năm 2012. “The Naked Truth”. Scientific Dirk ngày 22 tháng 4 năm 1996. “Students Still Sweat, They Just Don't Shower”. The New York Günter ngày 18 tháng 11 năm 2014. “Bekleidung in der Sauna Was haben Sie denn an?” [Clothing in the Sauna What are you wearing]. Frankfurter Allgemeine Zeitung bằng tiếng Đức. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm Peter ngày 29 tháng 4 năm 2018. “When 'Hair' Opened on Broadway, It Courted Controversy From the Start”. The New York Times. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm Lea ngày 5 tháng 5 năm 2019. “Eight Things to Know About Nudity and Your Family”. Psychology Today. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm Jocelyn 2013. “I Went 'Cause I Had Nothing On...”. Dance Today. 58 146 Times Editorial ngày 22 tháng 6 năm 1969. “No Nudity Needed”. The New York Times. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm Alexis ngày 21 tháng 3 năm 2011. “The Ivory Coast Effect”. The New Yorker. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm Eoin ngày 20 tháng 11 năm 2012. “San Francisco nudists warn of backlash if anti-naked law passes”. the Guardian. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm Alan ngày 25 tháng 9 năm 1995. “The School of London, Mordantly Messy as Ever”. The New York Times. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm Bonnie J. ngày 27 tháng 8 năm 2018. “How the Dutch Do Sex Ed”. The Atlantic. In the Netherlands, one of the world’s most gender-equal countries, kids learn about sex and bodies starting at age Richard ngày 3 tháng 2 năm 2014. “Men, Manliness, and Being Naked Around Other Men”. The Danny ngày 28 tháng 10 năm 2014. “Naked rambler Stephen Gough loses human rights case”. BBC News. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2016 – qua Paul ngày 23 tháng 3 năm 2010. “SAN ONOFRE State begins citing nudists at beach”. The San Diego Union-Tribune. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm Choire ngày 3 tháng 12 năm 2015. “Men's Locker Room Designers Take Pity on Naked Millennials”. The New York M.; Langmuir, M. ngày 16 tháng 4 năm 2018. “Who's Afraid of the Female Nude”. New York. ProQuest Rebecca ngày 21 tháng 12 năm 1999. “Curtains for schools' communal showers”. The James ngày 3 tháng 9 năm 1974. “Nudity Increases in America”. The New York Gypsy ngày 23 tháng 11 năm 2012. “The naked truth about San Francisco's nudity ban”. the Guardian. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm Jeffrey ngày 22 tháng 3 năm 2013. “Tunisian Woman Sent to a Psychiatric Hospital for Posting Topless Photos on Facebook”. The Zanthe ngày 28 tháng 2 năm 2012. “The Un-Erotic Glories of Nudity”. Psychology Rich ngày 5 tháng 1 năm 2012. “Long Live the FONG”. Colorado Springs Independent. ProQuest Nicholas ngày 19 tháng 8 năm 2003. “Why Humans and Their Fur Parted Ways”. The New York Brandy ngày 14 tháng 5 năm 2015. “Are These the World's Most Graphic Sex-Ed Videos?”. The Daily webArfin, Ferne ngày 6 tháng 3 năm 2019. “Is Naked Sunbathing Legal in England and Wales?”. TripSavvy. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm Helen ngày 20 tháng 7 năm 2018. “Windmill Girls meet for reunion and remember dancing days in old Soho”. Islington Kevin 25 tháng 5 năm 2023. “The Rabble Rousers”. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm Jason ngày 11 tháng 12 năm 2018. “Why Did Humans Lose Their Fur?”. Smithsonian. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm Charles ngày 21 tháng 1 năm 1998. “Nakedness and the Finnish Sauna”. Being and Nakedness. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2019 – qua Sokari 2015. “The Curse of Nakedness”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm Monica ngày 10 tháng 9 năm 2017. “Baring It All Why Boys Swam Naked In Chicago Schools”. Elysa ngày 13 tháng 7 năm 2003. “Music videos provocatively skirt the nudity issue”. USA Today. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm James ngày 10 tháng 12 năm 2016. “Last splash Immodest Japanese tradition of mixed bathing may be on the verge of extinction”. Japan Times. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm Jennifer 2004. “The Skinny on Nudism in the National Geographic. National Geographic. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm James R. ngày 31 tháng 1 năm 2000. “Is this child pornography?”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm Mark 2 tháng 2 năm 2016. “Flashing the flesh – a history of TV nudity”. The Guardian. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm Terri ngày 6 tháng 3 năm 2019. “Sex and Sexuality in Scandinavia”. TripSavvy. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm Terri ngày 3 tháng 6 năm 2019. “Nudism in Scandinavia”. TripSavvy. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm Eric ngày 29 tháng 4 năm 2014. “Until Fairly Recently, The YMCA Actually Required Swimmers To Be Nude”. Zeljka ngày 14 tháng 2 năm 2014. “Everybody Get Naked, or Don't Right Wing French Politicians Attack Immoral Children's Books”. Melville House Books. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm Rebecca ngày 9 tháng 7 năm 2015. “First-time jjimjilbang how to visit a Korean bathhouse”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm Heather ngày 14 tháng 5 năm 2016. “A woman is walking around America bare chested and she wants you to ask her about it”. The Geraldine ngày 31 tháng 7 năm 2002. “Naked Ploy Is Latest Threat in Oil Wars”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm Brittany 2019. “Here's the Exact Percentage of People Who Sleep Naked”. Men's Journal. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm Suemedha ngày 30 tháng 11 năm 2012. “The origins of bathhouse culture around the world”. BBC Travel. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm Paul 2017. “Designing Public Locker Rooms with an Eye on Privacy”. Athletic Fran ngày 8 tháng 10 năm 2010. “Seeking the real Finnish Sauna”. this is FINLAND. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm Forrest ngày 27 tháng 6 năm 2012. “Mooning A History”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm Pete ngày 19 tháng 8 năm 2019. “Women ask Supreme Court to toss topless ban Why are rules different for men?”. NBC Wendy ngày 4 tháng 11 năm 2011. “Skin 'sees' the light to protect against sunshine”. New Scientist. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm kết ngoàiWiki Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Khỏa nữ Mỹ đòi bình quyền được để ngực trần EnglishSpencer Tunick, nhiếp ảnh gia chụp ảnh khỏa thân nổi tiếng người MỹHiện tượng "Spencer Tunick" ở Trung Quốc Ca DaoTàng kinh các 2022-10-25T212927-0500Một liên tưởng khác về sự khỏa thân trong nghệ thuậtỞ phương Đông, sự khỏa thân cũng có xuất hiện trong nghệ thuật chân chính, và thực tế nó đã xuất hiện từ thời kỳ còn rất xa xưa chứ không phải là mới có. Nhưng sự khỏa thân đó không hề được truyền ra công chúng. Còn ở phương Tây, sự khỏa thân xuất hiện rất nhiều trong hội họa. Dù có cách nhìn nhận về nghệ thuật và văn hóa khác nhau, nhưng rốt cục, sự khỏa thân trong nghệ thuật phương Đông và phương Tây ở thời kỳ đỉnh cao đều mang một hàm nghĩa thiêng liêng và chân với nghệ thuật phương Tây, hầu hết các tác phẩm nghệ thuật phương Đông đều không chứa đựng yếu tố khỏa thân hay bán khỏa thân. Đây là sự khác biệt về văn hóa và cách nhìn nhận nghệ thuật. Ở phương Tây, những bức tranh Phục Hưng vươn đến sự chính xác cao trong việc mô tả thân thể người, từ đường nét, tỉ lệ, sự biến đổi cơ bắp, Hàm ý của sự khỏa thân trong hội họa phương Tây thực sự là hướng tới cái đẹp. Và cái đẹp đó là gì? Ở thời điểm đỉnh cao nhất của thời kỳ Phục Hưng, “hoàn mỹ” chính là yếu tố khiến nghệ thuật Phục Hưng có thể biểu đạt thế giới của Chư “Prometheus Steals Fire from Apollo’s Sun Chariot”, 1814, mô tả cảnh thần Prometheus lén lấy lửa từ cỗ xe của Thần Mặt trời để trao cho con người Họa sĩ Giuseppe Collignon, WikimediaNhững vị nam Thần và nữ Thần khỏa thân, bán khỏa thân không phải là hiếm gặp trong hội họa phương Tây. Chính vì vậy, người phương Tây thời xưa đã quen với sự khỏa thân trong nghệ thuật và rất nhiều tác phẩm thời đầu là không mang yếu tố khêu gợi hay kích động dục vọng. Tất nhiên, nghệ thuật phương Tây hiện đại đã xuống dốc, không hề làm được điểm này, và đã khiến sự khỏa thân trở thành một phương tiện để bộc lộ dục vọng từ phía phụ diện của nhân tính. Xem vấn đề này trong bài Nhìn lại một giai đoạn hưng suy của nghệ thuật nhân loạiBức tranh mô tả cảnh vị Thần bình minh Aurora đi trước mở đường cho Thần Mặt Trời để mở đầu ngày mới, 1614 Họa sĩ Guido ReniỞ phương Đông, tại một số nền văn minh nơi Nho giáo thịnh trị, sự khỏa thân cũng có xuất hiện trong nghệ thuật, và thực tế nó đã xuất hiện từ thời kỳ còn rất xa xưa chứ không phải là mới có. Nhưng sự khỏa thân đó không hề được truyền ra công chúng. Các bức tranh Trung Hoa thời xưa đều không hề mang yếu tố khỏa thân, một phần là vì giá trị đạo đức của người Trung Hoa xưa nghiêm khắc hơn đối với vấn đề dục vọng. Vậy chúng ta hãy lấy nền văn minh được cho là lâu đời nhất ở phương Đông trải dài liên tục năm là nền văn minh Trung Hoa làm ví một vùng sa mạc rộng lớn phía Tây Bắc Trung Quốc, có một ốc đảo nhỏ hình một chiếc lá, cách thành phố Đôn Hoàng 25 km về phía Tây Nam. Đây là nơi những bức bích họa trên tường nổi tiếng thế giới được tìm thấy tại hang đá Mạc Cao, hay còn gọi là Thiên Phật Động, một hệ thống gồm nhiều ngôi đền với các công trình chạm khắc trong đá, các bức tượng điêu khắc, và những bức bích họa. Nơi đây lưu giữ tổng cộng hang động, 492 ngôi đền, bích họa, kinh sách và thư tịch, pho tượng. Nếu trải các bức bích họa Thiên Phật Động ra liên tiếp nhau, người ta sẽ có một hành lang dài 25 Phật Phật Động được bắt đầu xây dựng vào năm 366 và đạt đến thời kỳ hoàng kim vào thời đại nhà Đường 618-907, nhưng phải đến nhà Nguyên 1279-1368 thì nói mới được hoàn thành toàn bộ. Công trình này đã được xây dựng trải dài suốt 10 triều đại Trung Hoa. Chính vì thế, người ta gọi Thiên Phật Động là một kỳ quan có một không hai của thế giới, là đỉnh cao của nghệ thuật trong tín ngưỡng phương kỳ quan trong Thiên Phật bức bích họa Đôn Hoàng có chủ đề chính là về tín ngưỡng Phật gia, với những câu chuyện về Phật Pháp, về Thần, quỷ, thiên giới, các truyền thuyết, niềm tin luân hồi, Và điều đặc biệt là, người ta thấy sự xuất hiện của những tiên nữ bán khỏa tiên nữ bán khỏa thân trên bức bích họa Đôn thể nói đây là một điều nằm ngoài sức tưởng tượng của rất nhiều người phương Đông. Thứ nhất là, người ta luôn tin rằng nghệ thuật phương Đông chân chính thời bấy giờ không có yếu tố khỏa thân. Thứ hai là, chuẩn mực đạo đức phương Đông thời bấy giờ lấy Nho gia làm chủ, nên càng không chấp nhận yếu tố khỏa thân. Thứ ba là, với đạo Phật, sự khỏa thân lại càng là một điều đại kỵ. Vậy tại sao lại có sự xuất hiện của những thiên nữ bán khỏa thân ở Thiên Phật Động, nơi tập trung tín ngưỡng tâm linh của một nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ nhất phương Đông?Phi Thiên trong một bức bích họa Đôn mặt tín ngưỡng, các thiên nữ bán khỏa thân được vẽ trong những bức bích họa Đôn Hoàng được gọi là các Phi Thiên. Tương truyền rằng, các Phi Thiên sẽ xuất hiện khi có những sự việc vô cùng thù thắng xảy ra trên thiên giới hay dưới nhân gian, bởi vì họ là những tiên nữ phụ trách về nghi lễ, biểu hiện sự hân hoan của Thiên thượng. Chỉ khi có một vị Phật giảng Pháp, truyền đạo, hay một người tu luyện chứng đắc được quả vị và viên mãn, thì các Phi Thiên mới tới có Phi Thiên trải hoa, có Phi Thiên tấu nhạc, có Phi Thiên bay lượn nhảy Thiên là những tiên nữ phụ trách về nghi lễ, biểu hiện sự hân hoan của Thiên tín ngưỡng Phật gia, việc sáng tác nghệ thuật thời đó không phải là một việc làm bừa bãi. Người tu luyện Phật Pháp cũng không hề tùy tiện tưởng tượng ra thế giới của Chư Thần Phật mà vẽ nên một bức bích họa. Các bức bích họa Đôn Hoàng là tác phẩm của những cao tăng thời xưa, trong khi đả tọa tu luyện tình cờ chứng kiến được cảnh tượng thù thắng nơi Thiên giới, muốn lưu giữ lại ký ức đó cho hậu nhân, mới vẽ nên những cảnh tượng như vậy. Vậy nên, các Phi thiên của phương Đông thực sự là có trang phục bán khỏa Thiên nhảy múa bên dưới đài sen của các vị Phật và Bồ giáo có giảng về kết cấu của vũ trụ trên quan điểm các chiều không gian, và cho rằng trong tam giới có nhiều tầng trời với những cách phân chia khác nhau. Các khái niệm như 9 tầng trời, hay 33 tầng trời đều xuất phát từ kết cấu phức tạp của các chiều không gian trong tam giới. Cũng có một cách phân chia khác cho tam giới trong Phật gia là Dục giới; Sắc giới; và Vô sắc giới. Sắc giới thì không còn có dục, còn Vô sắc giới thì cả sắc cũng không còn. Cách phân chia này có hàm nghĩa rằng ở những tầng trời cao hơn thì sắc và dục đều không tồn tại. Con người là có sắc tâm và dục vọng, nhưng Thiên thượng không hề có điều đó. Tiêu chuẩn về trang phục cũng từ đó mà có thay đổi. Đó chính là lý do vì sao các Phi thiên của phương Đông lại có trang phục bán khỏa ảnh các vị Bồ Tát trong một bức bích họa Đôn tại sao nghệ thuật này lại không được truyền ra công chúng? Bởi vì con người ta là có dục vọng, nên những bức tranh khỏa thân có thể dẫn khởi ác tâm của con người mà bất kính với Thần linh. Chính vì thế, bán khỏa thân trong nghệ thuật phương Đông không hề được truyền ra bên ngoài, mà chỉ tồn tại ở những nơi linh thiêng. Các cao tăng thời xưa khi tu luyện đến một trình độ nhất định cũng không còn dục vọng và sắc tâm nữa, nên khi ngắm nhìn các bức bích họa thì chỉ nảy lên cái tâm kính ngưỡng trước cảnh tượng thiên giới mà ảnh thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà trên một bức bích họa Đôn cạnh ẩn đố của Thiên Phật Động, còn một ẩn đố khác liên quan đến vấn đề sắc dục trong các tác phẩm nghệ thuật phương Đông tại Tây Tạng. Theo đó, tại Tây Tạng, trong các chùa chiền từ xa xưa, người ta có thể tìm thấy phổ biến hình tượng dương vật và cho rằng tín ngưỡng Tây Tạng thờ phụng những điều này. Kỳ thực Phật giáo Tây Tạng ở thời kỳ đầu được gọi là Lạt Ma giáo, ở phương Đông được gọi là Mật Tông. Thời đó Mật Tông không hề được truyền ra công chúng vì môn này có giảng vấn đề “nam nữ song tu”, có thể gây rối loạn chuẩn mực đạo đức và khơi gợi dục vọng của con người, chỉ được phép thực hành khi các cao tăng đạt đến cảnh giới đoạn tuyệt sắc tâm và dục vọng. Nguyên chữ Mật 密 vốn có hàm nghĩa là không để lộ, không cho người ngoài cuộc biết tới. Chính vì thế, những gì được truyền ra dưới danh nghĩa Mật Tông đều không được đầy vậy thì sự khỏa thân trong nghệ thuật phương Tây mang hàm nghĩa hướng đến sự hoàn mỹ mà biểu lộ Chư Thần; còn sự khỏa thân trong nghệ thuật phương Đông lại được giới hạn ở chốn linh thiêng, dành cho những người tu luyện đã đoạn dứt khỏi sắc Phi Thiên đang muốn nói điều gì cho nhân thế?Những Phi Thiên trên các bức bích họa Đôn Hoàng, những tiên nữ phụ trách về nghệ thuật chốn Thiên thượng, dường như đang ngầm nói với chúng ta rằng Nhân loại cần nhìn nhận lại sự khỏa thân chân chính trong nghệ thuật. Bởi vì ý nghĩa của nó chính là một biểu hiện của con người hướng đến Chư Thần, chính là một phần của nghệ thuật ngợi ca Chư Minh Hình tượng phụ nữ khỏa thân luôn là vẻ đẹp khiến thiên hạ từ trước đến nay mê mẩn, thậm chí là nguồn cơn cảm hứng và khuấy động nhiều nỗi giận dữ khác. 1. Danh họa Titan - Bức họa Venus of Urbino 1536-38 Tác phẩm Vệ nữ Urbino The Venus of Urbino của Tiziano - sưu tập của dòng họ Medici, nay được lưu giữ tại Galleria Degli Uffizi TP Florence, Italy từ năm 1736. Được vẽ năm 1538, Vệ nữ Urbino của Tiziano được xem là một trong những bức tranh xuất sắc của nghệ thuật Phục hưng Italy, khắc họa rõ tính chất đời thực trong hội họa thế kỷ XVI. Nàng Vệ nữ - nhân vật bước ra từ thần thoại Hy Lạp - biểu tượng cho sắc đẹp, tình yêu và sự trù phú, đang nằm ở tư thế ngả người duỗi theo chiều dài của bức tranh, phô diễn mọi vẻ đẹp thanh tân của các nàng. Sự quyến rũ của nàng Vệ nữ ở còn được nhắc đến nhiều hơn bởi bàn tay che đi một phần cơ thể. Nó vừa như khơi gợi đến nhục dục, dư vị của tình yêu, cội nguồn cho mọi sự hờn ghen, vừa như bị chặn lại trong cái vẻ thánh thiện của biểu tượng thánh thần ở một ranh giới hết sức mong manh của xúc cảm. 2. Nhiếp ảnh gia Juergen Teller - Ảnh Vivienne Westwood 2013 Vivienne Westwood No 3. Nhiếp ảnh gia Juergen Teller nổi tiếng với phong cách ảnh thừa sáng và không chỉnh sửa ảnh. Hầu hết các tác phẩm của anh đều đầy màu sắc, điển hình là các chiến dịch quảng cáo sản phẩm của Marc Jacobs. Trong bộ ảnh quảng cáo xuân/hè 2009 của thương hiệu thời trang Anh quốc Vivienne Westwood, nhà thiết kế Vivienne Westwood nổi tiếng với phong cách thời trang ấn tượng lạ mắt, xuất hiện khỏa thân trong một bức hình do Juergen Teller chụp có tên Vivienne Westwood No 3. Ranh giới giữa những thông lệ của nhiếp ảnh, thời trang, nghệ thuật khỏa thân bị Vivienne Westwood, trong độ tuổi 70, xóa nhòa theo từng suy nghĩ khác nhau của người xem ảnh, theo tờ Guardian. 3. Danh họa François Boucher – Bức họa Louise O'Murphy 1752 Louise O'Murphy Trong bức họa Louise O'Murphy, tình nhân của vua Pháp đang khoe trọn khuôn người phía sau cô. Đặt trong bối cảnh thời kỳ Khai sáng ở châu Âu, bức họa không đơn thuần là một bức tranh khỏa thân, mà nhân vật chính khêu gợi một cách có chủ đích. Nghệ thuật khỏa thân truyền thống Hy Lạp đôi khi bị nhầm lẫn với việc theo đuổi vẻ đẹp cổ điển; Nhưng trên thực tế, danh họa Boucher và mẫu vẽ của ông đã khẳng định, thứ nghệ thuật đó phải luôn luôn và luôn luôn gợi nhắc về dục tính. 4. Danh họa Ingres - Bức họa La Grande Odalisque 1814 La Grande Odalisque Tranh sơn dầu La Grande Odalisque của họa sĩ Jean Auguste Dominique Ingres, vẽ năm 1814, được đánh giá là "bức họa sống động hơn cả ảnh chụp". Bức tranh vẽ một vị cung phi với những chi tiết thon dài có chủ ý của họa sĩ. Nhiều người đương thời cho rằng họa sĩ Ingres đã miêu tả một nàng cung phi có hình thể thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên. Họa sĩ Ingres được xem là họa sĩ bậc thầy về chân dung, về cảnh phụ nữ tắm và về các thị tì Thổ Nhĩ Kỳ. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là La grande baigneuse và La grande odalisque. 5. Nhóm "Guerrilla Girls" - Tác phẩm "Do woman have to be naked to get into the Met Museum" 1989 Nữ giới phải khỏa thân thì mới được vào bảo tàng? Không đơn thuần nói đến tính nữ trong nghệ thuật, nhóm nữ du kích Guerrilla Girls còn nhấn mạnh đến tính nữ quyền trong nghệ thuật bởi theo họ, một số đặc tính nào đó, như dịu dàng, mềm mại, hay tinh tế, tức những đặc tính thường được quy cho nữ giới, là điều gì không có thực. Họ từng viết cuốn "sách hướng dẫn gối đầu giường về lịch sử nghệ thuật phương Tây của các nữ du kích” The guerrilla girls’ bedside companion to the History of Western Art , yêu cầu phải đưa thêm các nghệ sĩ nữ vào lịch sử nghệ thuật. Riêng với bức Nữ giới phải khỏa thân thì mới được vào bảo tàng? Do woman have to be naked to get into the Met Museum?, nhóm nữ nghệ sĩ đặt một cái đầu tinh tinh lên cô gái trong tranh của họa sĩ Ingres. Tác phẩm nhắc đến một thực tế rằng, số lượng nữ nghệ sĩ nổi tiếng trong nghệ thuật chỉ có 5%, trong khi đó, số mẫu khỏa thân cao đến 85%. Phải chăng khỏa thân là công cụ ép buộc? Ngày nay, nhìn tranh khỏa thân, người ta khó thể lờ đi câu hỏi này. 6. Danh họa Pablo Picasso - Bức tranh "Nude, Green Leaves and Bust" 1932 Nude, Green Leaves and Bust Bức tranh Nude, Green Leaves and Bust được danh họa Picasso hoàn thành vào năm 1932. Vào tháng 5/2010, tại nhà đấu giá Christie’s New York, một tỷ phú giấu tên đã chi triệu USD mua bức họa. Bức tranh trở thành tác phẩm đắt giá thứ 2 từng được mua lại của vị họa sĩ Tây Ban Nha này. Bức tranh hiển hiện tình yêu của Picasso dành cho tình nhân của ông thông qua việc danh họa đặt mọi yếu tố cảm xúc về tình dục vào từng phần của bức tranh. Nếu nói Picasso đánh đồng nghệ thuật khỏa thân với tính sở hữu, điều đó cũng là hoàn toàn đúng và trung thực. 7. Danh họa Sandro Botticelli - Bức tranh "The Birth of Venus" The Birth of Venus Sandro Botticelli là một họa sĩ thiên tài người Italy vào thời kỳ tiền Phục Hưng. Trong thần thoại Hy Lạp, thần Vệ Nữ được sinh ra từ bọt biển, và sự ra đời của thần Vệ Nữ trở thành một đề tài lớn trong hội họa, trong đó có những bức tranh rất nổi tiếng của Cabanel, Bouguereau hay Amaury Duval. Tuy vậy, bức tranh của Botticelli vẫn được công nhận rộng rãi là tác phẩm hoàn hảo và kinh điển nhất. Trong tranh, thần Vệ Nữ được miêu tả có mái tóc mây vàng rực rỡ, làn da trắng muốt, gương mặt thánh thiện và làn môi mọng. Người mẫu của bức họa được cho là Simonetta Cataneo Vespucco - người được Giuliano di Piero de Medici, cháu trai của dòng họ Medici danh giá ở Florence - đem lòng yêu say đắm. Thế nhưng, danh họa Sandro Botticelli cũng không tránh khỏi rung động trước vẻ đẹp kiều diễm của nàng Simonetta. Mối tình tay ba giữa người nghệ sĩ tài hoa và nhà quý tộc với một thiếu nữ có sắc đẹp khuynh thành đã được dân chúng thêu dệt bao điều ly kỳ và chính vì thế mà những bức họa Sandro Botticelli vẽ Simonetta càng trở nên nổi tiếng. 8. Danh họa Diego Velázquez - Bức tranh The Rokeby Venus 1647-51 The Rokeby Venus Năm 1914, Mary Richardson, một trong những phụ nữ đòi quyền bầu cử đầu tiên đã cào xước sáng tạo của họa sỹ người Tây ban Nha 1647-1951 ở bảo tàng tranh Quốc gia London. Bà ta rạch nó tới bảy lần, sau này tranh được phục chế thành công bởi giám đốc nhóm chuyên phục chế của bảo tàng tranh. Người phụ nữ này sau đó giải thích hành động của mình là để phản đối vụ bắt giữ lãnh đạo nhóm phụ nữ đòi quyền bầu cử Emmeline Pankhurst hôm trước đó. “Tôi đã cố phá hỏng bức tranh về người đàn bà đẹp nhất trong lịch sử thần thoại để phản đối việc chính quyền phá hoại cuộc đời bà Pankhurst, người có tính cách đẹp nhất lịch sử hiện đại,” bà nói trong một lần phát biểu trên báo. Trong một cuộc phỏng vấn, bà nói lúc đó bà thấy ghét cách bức tranh miêu tả những cái nhìn thô tục hàng ngày của bọn đàn ông khi nhìn chằm chằm vào thần Vệ Nữ khỏa thân trong tranh. Theo Có rất nhiều nghệ sĩ phương Tây trở thành người tiên phong trong lịch sử nghệ thuật thế giới. Vượt qua những thách thức và rào cản, họ thường kết hợp các biểu tượng và kỹ thuật để khắc họa văn hóa đặc trưng của mình. Ngoài ra, nhiều nghệ sĩ Tây Ban Nha nổi tiếng cũng sử dụng sự sáng tạo như một “vũ khí” để thể hiện biến động chính trị và nỗ lực mang lại sự thay đổi, cũng như truyền cảm hứng cho niềm tự hào dân tộc. Từ họa sĩ người Tây Ban Nha thế kỷ 17 – Diego Velázquez, người có nét vẽ gợi nhớ đến các họa sĩ trường phái ấn tượng thế kỷ 19, đến họa sĩ tiên phong Jean-Michel Basquiat – người đã đưa graffiti vào phòng trưng bày, họ luôn tự tạo xu hướng thay vì đi theo truyền thống. Một số, như Diego Rivera và José Clemente Orozco, với câu chuyên về tranh tường đã giúp công chúng kết nối với cội nguồn của mình. Những người khác, như Joan Miró và Salvador Dalí lại là những người tiên phong, không giới hạn bản thân ở một trường phái nhất định. Theo ngược dòng dòng thời gian của lịch sử nghệ thuật, từ thời kỳ Baroque cho đến ngày nay, cùng iDesign tìm hiểu một số nghệ sĩ ảnh hưởng nhất đến văn hóa phương Tây. 1. Diego Velázquez 1599 – 1660 “The Rokeby Venus” – Diego Velázquez. – 1648. Ảnh WikiArt Sinh ra ở Seville, Diego Velázquez đã có một sự nghiệp thành công rực rỡ khiến ông trở thành nghệ sĩ hàng đầu của thời kỳ hoàng kim Tây Ban Nha. Phần lớn tác phẩm nghệ thuật của ông gắn liền với vai trò là họa sĩ triều đình cho Vua Philip IV, ông đã giữ vị trí này trong gần 40 năm. Phong cách cá nhân của ông nổi trội so với các họa sĩ thời Baroque bấy giờ, những nét vẽ nhẹ nhàng của ông tiếp tục ảnh hưởng đến các họa sĩ trường phái Hiện thực và Ấn tượng. Những bậc thầy vĩ đại như Picasso, Dalí và Francis Bacon đều tỏ lòng tôn kính với Velázquez bằng cách tái hiện lại một số tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất của ông như Las Meninas. 2. Francisco Goya 1746 – 1828 “The Third of May 1808 Execution of the Defenders of Madrid” – Francisco Goya. 1814. Ảnh WikiArt Một trong những họa sĩ có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 18 – Francisco Goya, người đã đạt rất nhiều thành công to lớn trong suốt cuộc đời mình. Công việc của ông gắn liền với phong trào Lãng mạn và ông được xem là một trong những bậc thầy vĩ đại cuối cùng. Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của Goya, ” The Third of May 1808 – Ngày thứ ba của tháng 5 năm 1808″ Bức tranh về cảnh thi hành những người bảo vệ Madrid, một kiệt tác mang tính chính trị nhằm tôn vinh cuộc kháng chiến của Tây Ban Nha trong thời kỳ Napoleon chiếm đóng. Tác phẩm đột phá này đã thiết lập một tiền lệ mới của chiến tranh được mô tả bằng nghệ thuật. 3. José Clemente Orozco 1883 – 1949 Miguel Hidalgo y Costilla, lãnh đạo cuộc Chiến tranh giành độc lập Mexico của tác giả Jose Clemente Orozco. Bức tranh tường tại Cung điện Chính phủ Jalisco ở Guadalajara, Mexico. 1949. Ảnh Stock Photos từ posztosE / Shutterstock Họa sĩ biếm họa Mexico – José Clemente Orozco đã mở ra một kỷ nguyên quan trọng của nghệ thuật tranh tường Mexico, những tác phẩm của ông đề cao sự thống nhất trong nước sau Cách mạng Mexico. Nhiều bức tranh tường của ông thường nói về hoàn cảnh của nông dân và công nhân, vẫn có thể nhìn thấy trên khắp đất nước. Tác phẩm nghệ thuật mạnh mẽ này thường gây ám ảnh và nhuốm màu giận dữ trước những bất công xã hội xảy ra ở Mexico. Nhiều bức tranh tường đẹp nhất của ông được tìm thấy ở Guadalajara. 57 bức bích họa cũng tìm thấy tại Instituto Cultural Cabañas trong thành phố và được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới vào năm 1997. 4. Frida Kahlo 1907 – 1954 La venadita herida 1946 Với tác phẩm cá nhân và mang tính biểu tượng sâu sắc của mình, nghệ sĩ người Mexico Frida Kahlo đã trở thành một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất của thế kỷ 20. Trong phần lớn sự nghiệp của mình, bà thường được biết đến là vợ của Diego Rivera, những đánh giá về các bức tranh của bà chỉ nâng tầm từ những năm 1970 trở đi. Tự hào về bản sắc Mexico của mình, bà thường kết hợp các biểu tượng tiền Colombia trong các bức tranh và được ví như “chiếc váy đầy màu sắc của Mexico”. Kahlo luôn chịu đựng các vấn đề về sức khỏe trong suốt cuộc đời do tai nạn xe buýt khi còn trẻ, sự nghiệp hưng thịnh của bà cũng bị chấm dứt do sự ra đi mãi mãi ở tuổi 47. Nhưng những di sản để lại vẫn vẹn nguyên giá trị trường tồn và bà luôn là một biểu tượng của nhiều phong trào nữ quyền cũng như chính trị. 5. Diego Rivera 1886 – 1957 “The History of Mexico” – Diego Rivera. 1929-1935. Ảnh Stock Photos từ Florian Augustin/Shutterstock Cùng với Jose Clemente Orozco và David Alfaro Siqueiros, Diego Rivera được xem là một trong ba họa sĩ lớn của phong trào tranh tường Mexico. Rivera đã định hình nghệ thuật tranh tường Mexico đến tầm quốc tế khi ông tạo ra bản sắc dân tộc dựa trên Mexicanidad. Niềm tự hào về bản sắc Mexico này có thể nhìn thấy trong các tác phẩm của Rivera, thông qua bảng màu đậm và các hình dạng đơn giản chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Maya và Aztec. Các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là ở thành phố Mexico, thế nhưng Rivera cũng vẽ rộng khắp ở Hoa Kỳ. Bức tranh tường Man in the Crossroads, đã bị xóa khỏi Trung tâm Rockefeller ở New York do có hình ảnh của Lenin trong tác phẩm. 6. Pablo Picasso 1881 – 1973 “Les Demoiselles d’Avignon” – Pablo Picasso. 1907. Ảnh Wikipedia Danh sách các họa sĩ Tây Ban Nha có sức ảnh hưởng không thể thiếu Pablo Picasso. Là một nghệ sĩ đã thay đổi bộ mặt của nghệ thuật hiện đại, những đóng góp của ông cho văn hóa phương Tây là không thể phủ nhận. Cho dù chúng ta nhìn vào các tác phẩm lập thể ấn tượng hay nghiên cứu sự phát triển đáng kinh ngạc trong phong cách vẽ tranh của ông qua các thời kỳ khác nhau, luôn có rất nhiều điều để nói về họa sĩ người Tây Ban Nha này. Ông là một thần đồng, người đầu tiên thành thạo các kỹ thuật cổ điển trước khi tự mình phá vỡ các quy tắc của nghệ thuật truyền thống. Các tác phẩm của ông rất ấn tượng, ông tạo ra khoảng tác phẩm nghệ thuật trong suốt cuộc đời của mình bao gồm tranh, tác phẩm điêu khắc, gốm sứ, bản vẽ và bản in. 7. Joan Miró 1893 – 1983 Nghệ sĩ người Catalan – Joan Miró là một nhân tố không thể thiếu trong thế giới nghệ thuật, ông tận hưởng sự thành công trong suốt cuộc đời. Những bức tranh ban đầu của ông được gộp chung trong phong trào Siêu thực và dựa trên chủ nghĩa tự động, khi tâm trí vô thức được phép kiểm soát bức tranh. Là một nghệ sĩ đa phương tiện thực thụ, Miró thường dành thời gian rảnh để tập trung vào điêu khắc, gốm sứ, thiết kế bộ và in. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng lớn đối với nhiều nghệ sĩ hiện đại, sự trừu tượng của ông ảnh hưởng đến các thế hệ sau này như nghệ sĩ trừu tượng Jackson Pollock. Với mong muốn giúp đỡ các nghệ sĩ trẻ, năm 1975, ông thành lập Quỹ Joan Miró và Trung tâm nghiên cứu nghệ thuật đương đại tại quê hương Barcelona. 8. Jean-Michel Basquiat 1960 – 1988 Mặc dù chỉ sống đến 27 tuổi, nhưng nghệ sĩ người Mỹ Jean-Michel Basquiat đã tạo được một dấu ấn không thể phai mờ trong thế giới nghệ thuật. Là người gốc Haiti và Puerto Rico, Basquiat với cái tên nghệ sĩ graffiti SAMO nổi tiếng trên khắp thành phố New York vào cuối những năm 1970. Basquiat là một trong những nghệ sĩ graffiti chuyển từ underground sang lĩnh vực mỹ thuật, với những bức tranh tiêu biểu được triển lãm trên khắp thế giới. Nghệ thuật của anh chứa đựng những bất công xã hội và những cuộc đấu tranh giai cấp, thường liên quan đến cộng đồng da đen. Năm 2017, bức tranh của anh đã lập kỷ lục tại buổi đấu giá khi bức tranh đầu lâu với hộp sọ màu đỏ và đen vẽ năm 1982 được bán với giá 110,5 triệu USD. 9. Salvador Dalí 1904 – 1989 Với sự nghiệp kéo dài hơn sáu thập kỷ, Salvador Dalí là một trong những họa sĩ có ảnh hưởng nhất trong nghệ thuật hiện đại. Nổi tiếng với những bức tranh siêu thực như The Persistence of Memory, Dalí cũng là một nhà điêu khắc, nhà làm phim, nhiếp ảnh gia và họa sĩ minh họa nổi tiếng. Ông thậm chí còn tạo ra một cuốn sách nấu ăn dựa trên những bữa tiệc tối huyền thoại của ông và vợ Gala. Với tính cách lập dị phù hợp với tác phẩm nghệ thuật của mình, ông luôn có vị trí nhất định trong lòng công chúng suốt 30 năm sau khi ông qua đời. 10. Fernando Botero 1932 – Họa sĩ và nhà điêu khắc người Colombia – Fernando Botero với phong cách độc đáo, đặc trưng. Phong cách trong các bức tranh và điêu khắc của ông chủ yếu là các nhân vật với tỷ lệ cong, được cường điệu hóa. Là một trong những nghệ sĩ được nổi bật nhất từ Mỹ Latinh, Botero bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nguồn gốc của mình. Việc ông sử dụng các đường nét phác họa mạnh mẽ và màu sắc rực rỡ, bằng phẳng là một đặc trưng của nghệ thuật dân gian Mỹ Latinh. Gần đây, công việc của ông tập trung vào các chủ đề chính trị. Bộ truyện Abu Ghraib năm 2005 dựa trên các báo cáo về sự lạm dụng của quân đội Mỹ tại nhà tù Abu Ghraib trong Chiến tranh Iraq, đã thu hút sự chú ý của quốc tế khi được trưng bày. Biên tập Thao LeeTác giả Jessica Stewart Chủ đề liên quanNhững bức thư của họa sĩ Van Gogh và 20 câu trích dẫn cho tâm hồn sáng tạoLịch sử độc đáo và thẩm mỹ tinh tế của bản in khắc gỗ Ethereum Nhật Bản8 tàn tích nghệ thuật cổ xưa vĩ đại nhất thế giới12 bức tranh hoa nổi tiếng gắn liền với lịch sử nghệ thuật thế giớiNghệ thuật xăm Irezumi Khám phá các kỹ thuật cổ xưa và sự phát triển của hình xăm truyền thống Nhật Bản

ảnh khoả thân nghệ thuật phương tây