Chúng tuy mang tiếng chữ nghĩa đầy mình nhưng khi thốt ra cũng chẳng khác. 4. gì "lũ ngẩn ngơ", không biết gì, để đến nỗi một cô gái trẻ phải "dạy" lại. Hồ Xuân. Hương gọi chúng là "dê cỏn" chứ không phải dê con, vì dê con là dê còn nhỏ, còn. ngây thơ, "dê HỒ XUÂN HƯƠNG, NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG Trước kia Xuân Hương thường bị giai cặp phong kiến thống trị coi là người đàn bà lăng loàn, đĩ thõa. Họ căm ghét Xuân Hương, bởi vì Xuân Hương dám nói những điều bọn mũ cao áo dài không dám nói đến. Đó mới là một phần, Một phần nữa điều này họ không dám nói ra Hình ảnh và thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian, từ đề tài, cảm hứng, đến Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm được coi là thay mặt đại diện cho người thiếu phụ tài ba bạc mệnh vào buôn bản hội cũ. 2. Tìm phát âm về phong cách chế tác của bà chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hương. Với nhiều tác phđộ ẩm thơ Nôm khác biệt, Hồ Xuân Hương được Thủ pháp song quan và yếu tố tục - thanh trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Cơ chế của nghệ thuật trào phúng Hồ Xuân Hương đó là dựa vào thủ pháp song quan, xây dựng những hình tượng mang ý nghĩa sóng đôi, gắn với yếu tố cái tục để làm vũ khí châm biếm. Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Ngày đăng 18/12/2015, 1131 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lí chọn đề tài Hồ Xuân Hương tượng văn học thấy văn học Việt Nam Không tài hoa xuất chúng mà thơ văn lẫn đời bà làm tốn không nhiều giấy mực giới nghiên cứu Giáo sư Lê Đình Kỵ bàn Hồ Xuân Hương có câu nhận xét sau “Thơ Xuân Hương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - khí mà huyết khí, với khí chất riêng mình” Chính mang cốt cách riêng, khí khái riêng mà ẩn chứa thơ Xuân Hương sức sống tiềm tàng mãnh liệt, chực chờ tuôn trào câu chữ thứ tạo nên cốt cách riêng ấy, nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Mục đích nghiên cứu Việc tìm hiểu kỹ nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương giúp hình dung rõ nét người cá tính thơ bà, đồng thời hiểu lý thơ văn Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớn đến văn học nước nhà Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài xoay quanh tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khái niệm “Trào phúng” “Trào phúng” thân từ Hán - Việt Nếu tách riêng chữ “trào” cười cợt, chế giễu; “phúng” lời bóng gió để châm biếm, đả kích Nghệ thuật trào phúng cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích thói hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội Người ta thường chia trào phúng thành ba loại chính loại khôi hài, cười cợt; loạt phê phán, đả kích loại châm biếm chế giễu Đặc trưng thơ trào phúng yếu tố gây cười, yếu tố hài hước văn thể mặt nội dung lẫn hình thức ta cảm nhận rõ điều thơ Hồ Xuân Hương Đối tượng trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương nhìn ung nhọt xã hội đưa vào thơ mình, tiếng chửi bà cất lên đầy khiến người nghe phải cười thích thú Đối tượng lên án bà đa dạng có đặc điểm chung tên “bụng đầy kinh sách” hay hạng “quyền cao chức trọng” lúc cao Đó tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, ham ghẹo gái lại võ vẽ làm thơ, lại thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ “Dắt díu lên đến cửa chiền, Cũng đòi học nói, nói không nên Ai nhắn bảo phường lòi tói, Muốn sống, đem vôi quét trả đền” Bọn Đồ Dốt Bà truy tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa ai, kể lũ vua chúa , quan lại, hiền nhân quân tử cho có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội người thật chúng không hám danh, hám lợi mà đam mê tửu sắc “Hồng hồng má phấn duyên cậy Chúa dấu vua yêu này” Vịnh quạt Nếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào thói háo sắc thích “giả vờ” với đám quan thị, bà đánh vào sống trái lẽ tự nhiên bọn chúng “Quan thị” Ngoài ra, sư sãi đối tượng nhắc đến không lần thơ Xuân Hương Trong xã hội rối ren, nhà chùa không giữ vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào tên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hành vi giả dối đồi bại “Sư hổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”… Tuy nhắc đến nhiều trọng tâm “anh hùng quân tử”, Xuân Hương không bỏ qua tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa, xem tình cảm cô gái ngây thơ trò chơi để “no xôi chán chè”, chúng thẳng tay rũ bỏ “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu đà nảy nét ngang Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình khối thiếp xin mang” Không chồng mà chửa Trào phúng thơ Xuân Hương thể nhiều cung bậc cảm xúc khác Hả có, thích thú có đắng cay có, chua xót nhiều Tiếng cười mang ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể điệu bộ, cử chỉ, tính cách Để góp phần tạo nên thành công việc xây dựng nghệ thuật trào phúng, không nhắc đến tài khắc họa hình tượng nhân vật Hồ Xuân Hương Bà phác nên nét riêng cho nhân vật cách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình từ ngữ, câu thơ dài dòng Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật thông qua biểu lộ thái độ thân “Khéo khéo đâu lũ ngẩn ngơ Lại cho chị dạy làm thơ” Ong non ngứa nọc châm hoa rữa Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!” Lũ ngẩn ngơ Trong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, ngày kia, Hồ Xuân Hương thăm chùa Trấn Quốc về, bà lững thững bên bờ hồ Tây có vài tên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa hòng ghẹo Xuân Hương lặng thinh không nói, đến nghe thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịu được, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho thơ Chỉ với từ “ngẩn ngơ” câu phác họa toàn dáng vẻ tên văn sĩ nửa mùa hay Chúng mang tiếng chữ nghĩa đầy chẳng khác “lũ ngẩn ngơ”, gì, để cô gái trẻ phải “dạy” lại Hồ Xuân Hương gọi chúng “dê cỏn” dê con, dê dê nhỏ, ngây thơ, “dê cỏn” hạng dê lớn, ngang ngược, tự đắc Cách gọi “ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể thành công chất ti toe anh nửa trẻ nửa người lớn Bọn chúng kẻ “ngựa non háu đá”, hợm hĩnh thực chất chút học thức thật Có thể nói, thú vị, hóm hỉnh Xuân Hương khiến bật cười, cười thích thú xen lẫn nể phục nữ nhi, tài nghệ văn chương bà hẳn thứ mang danh “thầy” nửa mùa Hay “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo hay nghĩ tới nhắc đến chùa chiền, Phật giáo không thấy thơ bà nữa “ Chẳng phải Ngô, ta, Đầu trọc lốc, áo không tà Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm, Vải núp sau lưng sáu bảy bà Khi cảnh, tiu, chũm choẹ, Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi Tu lâu có lẽ lên Sư cụ, Ngất nghểu sen mà.” Sư hổ mang Đầu trọc đỗi bình thường, sư mà đầu chẳng trọc? Thế kèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư lên đầy vẻ thấy mỉa mai, đùa cợt Ban ngày bao nhà sư khác, cúng dường,“oản dâng” Phật bình thường, mà ẩn sau đó, “sắc dục” quẩn quanh , vây hãm lấy nhà sư Không thế, chùa chiền vốn chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, mà sư với vãi chơi trò chơi đám nít?! Ở chùa có chuông, mõ mà lại có đủ thứ nhạc khí phường bát âm "Khi cảnh, tiu, chũm chọe" Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng đổi "Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ vài hình ảnh cử chỉ, giọng điệu toát hình tượng nhà sư mà người đời kính trọng trở nên biến chất mặt đạo đức đến mức xã hội lúc Cách khắc họa nhân vật Hồ Xuân Hương vô đơn giản lại toát lên hương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ bà Chỉ vài nét chấm phá, hình tượng người lên với đầy đủ đặc điểm, tính chất mà Xuân Hương muốn đề cập đến Đó điều mà nhà thơ thực được, ta thấy rõ nét nhiều thơ “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương Cách sử dụng từ ngữ Nếu so sánh kiểu lựa chọn từ ngữ Bà Huyện Thanh Quan với cách sử dụng từ ngữ Hồ Xuân Hương, ta thấy có đối nghịch rõ nét hai người Cùng miêu tả đèo câu chữ Bà Huyện Thanh Quan sang trọng, mực thước mang phóng cách thơ văn “quý tộc” “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ chen lá, đá chen hoa Lom khom núi, tiều vài Lác đác bên sông, chợ nhà” Qua Đèo Ngang Trong đó, Đèo Ba Dội Hồ Xuân Hương vô gần gũi, thân thuộc nhiều Nếu đứng phương diện ý nghĩa nhã mà so sánh thơ Bà Huyện Thanh Quan hình đen trắng phẳng Đèo Ba Dội tranh ba chiều sống động đầy màu sắc âm Xuân Hương không chiêm nghiệm sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởng tất âm thanh, màu sắc, hình khối… vạn vật trạng thái sung mãn Nữ thi sĩ tài hoa khai thác triệt để khả tu từ phong phú ngôn ngữ dân tộc hết, nghệ thuật trào phúng bà mài giũa bén nhọn Tài mặt ngôn ngữ không biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnh vật thiên nhiên, mà muốn trào lộng đó, bà khiến chúng, có bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay chí bậc “vua”, “chúa” phải vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần kẻ giả dối mà khoác lên thân áo đạo đức cao sang Cả tiếng xưng hô với thần thánh “đây”, “đấy” bà đứng trước Đền Sầm Nghi Đống nghe đầy vẻ kể cả, xách mé “Ví đổi phận làm trai được, Thì anh hùng há nhiêu!” Đền Sầm Nghi Đống Không thế, việc sáng tạo nhiều từ ngữ lạ, cách thức dùng “Xuân Hương” Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng “cửa son”, “bậc đá”, “lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… làm tác động mạnh lên thần kinh cảm giác người đọc, buộc người đọc không muốn hình dung phải hình dung Trong thơ Hồ Xuân Hương tràn ngập động từ mạnh, có từ thân động từ mạnh có lẽ nữ thi sĩ chưa vừa ý, bà gắn thêm vào phó từ bổ nghĩa mà ta thấy Tự tình III “Xiên ngang mặt đất rêu đám Đâm toạc chân mây đá hòn.” Tự tình III Từ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe động tác trở nên “ngọt” hơn, “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hết, đâm vút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc bầu trời, mà ngăn cản Sự thêm thắt đầy sáng tạo tạo nên chất mạnh mẽ thơ Hồ Xuân Hương Có lẽ đặc biệt thơ Hồ Xuân Hương cách sử dụng từ láy lạ Những từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, luồn lách, chông chênh, cử động nhanh mạnh “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, … Chỉ từ mà diễn tả chiều không gian, rộng sâu hun hút “Bày đặt khéo khéo phòm Nứt lỗ hỏm hòm hom” Động Hương Tích Hay “Trời đất sinh đá chòm Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom” Hang Cắc Cớ Để diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” hai “Hang Cắc Cớ” “Động Hương Tích” Không phải “hun hút”, “thăm thẳm” mà “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” làm mở rộng thêm độ sâu tận hang, đồng thời cho thấy chiều rộng lẫn chiều cao hang động, kích thích trí tò mò người Một từ mà diễn đạt đa chiều không gian đó, nhìn lại dòng thơ thời đại đổ sau, ta khó mà kiếm câu thơ đặc biệt đến Thơ Huy Cận tài tình không tránh khỏi dùng nhiều từ không gian để dẫn giải chiều không gian “Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu” Tràng giang Xuân Hương không cần “xuống”, “lên”, “sâu”, chẳng cần “dài”, “rộng” mà từ khiến người đọc hình dung rõ ba chiều không gian vật mà bà muốn nói đến Trong thơ Hồ Xuân Hương sáng tác, từ láy sử dụng với tần suất cao, bao gồm từ láy gợi âm thanh “tỉ tì ti”, “hi ha”, “hu hơ”, “vo ve”, …, từ láy gợi cảm giác, xúc giác “xù xì”, “toen hoẻn”, “lam nham”,…, từ gợi tư vận động “cheo leo”, “vắt vẻo”, “lom khom”, ngất nghểu,… hay từ tượng gây tiếng động khua lắc cắc, vỗ long bong, vỗ phập phòm, rơi thánh thót, rơi lõm bõm… Ngay từ láy tượng hình hóa nội tâm nhân vật trữ tình “Tự tình” có nét nghĩa vận động “nổi nênh”, “lênh đênh”, “lai láng”, …đều gợi trôi nổi, chơi vơi Thơ Xuân Hương thực cá tính mà không nhà thơ bắt chước Bà đưa ngữ vào thơ cách tự nhiên “tí con”, “lại đây”, “muốn sống”… kể tiếng chửi “bá ngọ”, “chém cha”, “cha kiếp”, “lũ ngẩn ngơ”,… mang đậm đặc trưng dân tộc Không trau chuốt, tô vẽ, chất bình dân mộc mạc ngấm sâu Hồ Xuân Hương tạo nên tiếng cười thu hút, gần gũi đại chúng Lê Hoài Nam viết "Hồ Xuân Hương" in Nghĩ thơ Hồ Xuân Hương Nxb GD 1998 nhận xét "Xuân Hương có vốn ngôn ngữ phong phú, xác, đồng thời độc đáo Điều chứng tỏ Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ dân tộc, mà biểu cá tính mạnh mẽ Xuân Hương Có tiếng hỏm hòm hom, trơ toen hoẻn, chín mõm mòm, đỏ lòm lom, sáng banh, trưa trật phải người có lĩnh vững vàng Xuân Hương đưa vào văn học, vào thi ca Nói chung ngôn ngữ Xuân Hương có sức biểu mạnh, xúc tích, hình ảnh sinh động, nói tiếng đắc tiếng" Cách sử dụng từ ngữ đầy tính gợi sinh động cách thức góp phần tạo nên tiếng cười cho thơ văn Hồ Xuân Hương Không bình lặng mà loạn, văn thơ Xuân Hương giống tính cách người bà, có vài trăm, vài nghìn năm sau nữa, làm “điêu đứng” giới thơ văn “Tính dục” thơ Hồ Xuân Hương Không tài tình cách khắc họa, xây dựng nhân vật sử dụng từ ngữ độc đáo, “tính dục” thơ Hồ Xuân Hương thứ góp phần xây dựng thành công nghệ thuật trào phúng Đã có nhiều ý kiến bàn cãi thơ Hồ Xuân Hương nhiều lời nhận định đưa Liệu thơ bà có hay không tồn yếu tố “dâm” “tục”? Tuy thế, có điều mà không phủ nhận rằng, ẩn sâu câu chữ thơ bà đỗi đặc biệt để nhận nó, tiếng cười bật cách vô tự nhiên Hồ Xuân Hương khéo léo lồng ghép ý tứ “thầm kín” lớp bề “thanh tao” “Một đèo, đèo lại đèo Khen khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm hum Hòn đá xanh rì lún phún rêu” Đèo Ba Dội Đọc thơ ta thấy rõ Hồ Xuân Hương miêu tả vẻ đẹp Đèo Ba Dội Một đèo Ba Dội với cỏ mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thấy đất đỏ chân, hang động màu đỏ chẳng có khiến ta phải phân vân, lí giải dòng thơ bà góc độ phồn thực, cảm thấy thú vị hình ảnh tưởng chừng chân thực lại mang tầng nghĩa sâu xa, sống động đến kì lạ Nói mà không nói, tả mà không tả mà để người đọc tự khơi dậy trí tưởng tượng Bả không nói toạc điều thầm kín 10 buồng the gác kín mà thông qua biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, cô gái Hồ Xuân Hương không tự sống thật với tình yêu, hôn nhân, mà ngược lại phải chịu cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính thế, thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu Hồ Xuân Hương sáng tác nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương khéo léo đến mức khiến hình dung rõ ràng từ việc dựng đu cảnh chơi đu trai, gái thời xưa. “Bốn cột khen khéo khéo trồng Người lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song Chơi xuân có biết xuân tá Cọc nhổ lỗ bỏ không !” Đánh đu Sự khéo léo, nhịp nhàng cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không gợi sức hút mặt thẩm mỹ mà thông qua đó, ta cảm nhận niềm vui đôi trai gái tham gia trò chơi đánh đu lễ hội làng quê Đặc biệt từ “cật” câu luận danh từ phận thể đứng sau từ láy “khom khom” thường hiểu động từ, vần “at” trắc cao âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục cho thấy hào hứng chơi đu Kông thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” thi 11 sĩ phác họa sống động mà không bút vẽ họa sĩ làm Làm có vẽ nên tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cái chỗ “đánh đu” mà lại đánh đu Một thơ với nhiều lớp nghĩa kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với đa tầng nhiều lớp nghĩa, thấy rõ tài người phụ nữ tài sắc vẹn toàn Tính “dục” thơ Hồ Xuân Hương dùng để đả kích tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh thế, thực chất, nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông” thì “Quân tử dùng dằng chẳng dứt Đi dở không xong” Thiếu nữ ngủ ngày Chỉ từ láy “dùng dằng” đủ để lột tả phân vân, tranh đầu nội tâm dội nên hay nên ở? Đi tiếc lỡ dịp may lạ lùng, chiêm ngưỡng thân ngọc ngà nằm chõng ngàn năm có Ở không xong lỡ có người trông thấy, cô gái tỉnh lại, tiếng lành đồn xa chịu chê cười Và cuối thơ, người ta chàng quân tử định “đi” hay “ở” đời thường đàn ông ngồn ngộn kìm chế Ta bật cười trước băn khoăn anh ta, nhìn muốn lại, mà lại không thể, muốn mà lại chẳng Ôi oăm thay! Biện pháp tu từ Một biện pháp tu từ sử dụng phổ biến thơ Hồ Xuân Hương biện pháp nói lái Nói lái biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âm đầu, vần điệu hai hay nhiều âm tiết để tạo nên lượng ngữ nghĩa bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui ây hình thức chơi chữ đặc biệt 12 ngôn ngữ phân tiết tiếng Việt có từ lâu đời thường thấy văn học dân gian Nó tồn câu ca dao, tục ngữ câu hát người xưa “Con cá đối nằm cối đá Con mèo đuôi cụt năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ ương Ngọt mật đường nhắm lớ anh Thanh ương tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành biện pháp nghệ thuật đặc trưng thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm từ ngữ bà mang nhiều tầng nghĩa phong phú, người ta chiêm nghiệm ra, tiếng cười phá lên đầy thú vị sảng khoái, người ta cảm thấy tâm đắc khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật tác phẩm bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi chút tẻo tèo teo Thuyền từ muốn Tây Trúc Trái gió phải lộn lèo” Sư hoạnh dâm Xét bề mặt ngữ nghĩa từ có ý nghĩa, tạo nên nội dung thống nhất, hoàn chỉnh “Lộn lèo” dây lèo thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngược trở lại, “trái gió” ngược gió Tuy nhiên lái lại, thơ lại tạo nên lớp nghĩa khác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân mục đích xoáy sâu vào nhân vật nhắc đến Luận nghĩa thứ hai, hoạt động thuộc 13 ông sư, bà vãi, tiểu… vào đây? Tài tình chỗ từ ngữ mang nghĩa không sống sượng, chớt nhã, khiêu dục… Ở góc độ khác, tài tình Hồ Xuân Hương thể việc dùng từ thuộc trường từ vựng thơ Bài thơ Khóc Tổng Cóc, 28 chữ có từ vật thuộc loài cóc “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”, “chẫu chuộc”, “cóc” Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có nhiều từ vị thuốc “cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả từ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bên cạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hình cho tranh với đường nét mà Xuân Hương phác thảo nên Mượn hình ảnh ốc nhồi hay mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, cao thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm cô gái nhà lành thông qua đó, nữ thi sĩ thể ước mơ hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn “Bánh trôi nước” mà nữ sĩ nhắc đến vẻ đẹp hình thể, tâm hồn người gái thân phận bé nhỏ, đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập “em giữ lòng son “Tấm lòng son " biểu phẩm chất cao đẹp người phụ nữ xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc mà không đủ sức làm lay chuyển KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương thổi luồng gió vào văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà người phụ nữ không tài hoa mà gan dạ, dám nói cần nói nói thẳng, nói thật không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình dân Không thế, ngòi bút xuất sắc mình, nữ sĩ khéo léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc thông qua đó, xã hội với đầy rẫy bất công mà nạn nhân người 14 phụ nữ tái lên Bản thân Hồ Xuân Hương người phụ nữ, chịu kiếp làm lẽ nên thấm thía nỗi đau Chính thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực không thế, tính nghệ thuật đậm đà Và nghệ thuật trào phúng bà vô độc đáo khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO Bắc Giang, Phiếm Luận thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười thơ Nôm truyền tụng thuộc tượng Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục thơ Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Lý giải dâm tục thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực Kiều Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục thơ Nôm Hồ Xuân Hương góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ đời, 2010 [...]... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg... cũng rất đậm đà Và nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 2 Bắc Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiện tượng Hồ Xuân Hương 3 Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương 4 Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực 5 6 7 8 9... léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũng thông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người 14 phụ nữ cũng được tái hiện lên Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ, cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau Chính vì thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng... thấy trong văn học dân gian Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa “Con cá đối nằm trong cối đá Con mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ lá thanh ương Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh Thanh ương là tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệ thuật rất đặc trưng trong thơ. .. cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là Hồ Xuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúng ta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến... Một bài thơ với nhiều lớp nghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa, chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn này Tính “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương. .. cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định “đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộn không thể kìm chế được Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìn càng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được Ôi oái oăm thay! 4 Biện pháp tu từ Một trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương. . .trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thật với tình yêu, hôn nhân, của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục”... chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm lay chuyển nó KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nói những gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ... thuật rất đặc trưng trong thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từ từng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người ta chiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còn cảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật trong tác phẩm của bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi một chút ... phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ... chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật,... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo - Xem thêm -Xem thêm NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, , CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, Cách sử dụng từ ngữ, Biện pháp tu từ MỤC LỤCMỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiHồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học hiếm thấy của nền văn học ViệtNam. Không chỉ tài hoa xuất chúng mà cả thơ văn lẫn cuộc đời của bà cũng đãlàm tốn không biết bao nhiều là giấy mực của giới nghiên cứu. Giáo sư Lê ĐìnhKỵ khi bàn về Hồ Xuân Hương đã từng có câu nhận xét như sau “Thơ XuânHương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - không phải khẩukhí mà là huyết khí, với khí chất riêng của mình”. Chính vì mang một cốt cáchriêng, khí khái riêng mà ẩn chứa trong thơ Xuân Hương là sức sống tiềm tàngmãnh liệt, luôn chực chờ tuôn trào trong từng câu chữ và một trong những thứtạo nên cốt cách riêng ấy, chính là nghệ thuật trào phúng trong thơ của Hồ Mục đích nghiên cứuViệc tìm hiểu kỹ hơn về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương sẽgiúp chúng ta hình dung rõ nét hơn về con người và cá tính trong thơ của bà,đồng thời hiểu được lý do vì sao thơ văn của Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớnđến thế đối với nền văn học nước Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghệ thuật trào phúng trong thơ HồXuân Phạm vi nghiên cứuPhạm vi nghiên cứu đề tài này xoay quanh các tác phẩm thơ của Hồ Phương pháp nghiên cứu-Phương pháp phân tích – tổng pháp liệt pháp so sánh….NỘI DUNGCHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀOPHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG1. Khái niệm “Trào phúng”“Trào phúng” bản thân nó là từ Hán - Việt. Nếu tách riêng từng chữ thì “trào” làcười cợt, chế giễu; “phúng” là lời bóng gió để châm biếm, đả kích. Nghệ thuật tràophúng là cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích những thóihư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã ta thường chia trào phúng thành ba loại chính loại khôi hài, cười cợt; loạtphê phán, đả kích và loại châm biếm chế giễu. Đặc trưng cơ bản của thơ trào phúnglà yếu tố gây cười, yếu tố hài hước trong văn bản được thể hiện về mặt nội dung lẫnhình thức và ta có thể cảm nhận rõ điều này trong thơ của Hồ Xuân Đối tượng trào phúng trong thơ Hồ Xuân HươngHồ Xuân Hương nhìn ra những ung nhọt của xã hội và đưa vào thơ mình, tiếngchửi của bà cất lên đầy hả hê khiến người nghe cũng phải cười thích thú. Đối tượnglên án của bà rất đa dạng nhưng đều có đặc điểm chung là những tên “bụng đầy kinhsách” hay những hạng “quyền cao chức trọng” nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ thanh là những tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, đã ham ghẹo gái lại còn võ vẽ làm thơ,lại còn thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ2“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,Cũng đòi học nói, nói không về nhắn bảo phường lòi tói,Muốn sống, đem vôi quét trả đền”Bọn Đồ DốtBà truy ra tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa bất cứ ai, kể cả lũ vua chúa ,quan lại, hiền nhân quân tử... luôn cho mình có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo líthánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội nhưng con người thật của chúng không chỉ hámdanh, hám lợi mà còn đam mê tửu sắc“Hồng hồng má phấn duyên vì cậyChúa dấu vua yêu một cái này”Vịnh quạtNếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào cái thói háo sắc nhưngthích “giả vờ” thì với đám quan thị, bà đánh vào cái cuộc sống trái lẽ tự nhiên củabọn chúng “Quan thị”. Ngoài ra, sư sãi cũng là một trong những đối tượng đượcnhắc đến không ít lần trong thơ Xuân Hương. Trong cái xã hội rối ren, nhà chùa đãkhông còn giữ được vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào đó là nhữngtên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hiện những hành vi giả dối đồi bại “Sưhổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”….Tuy được nhắc đến nhiều nhất và trọng tâm nhất vẫn là những “anh hùng quântử”, nhưng Xuân Hương cũng không bỏ qua những tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa,xem tình cảm của những cô gái ngây thơ là trò chơi để rồi khi “no xôi chán chè”,chúng thẳng tay rũ bỏ“Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,Phận liễu sao đà nảy nét nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?Mảnh tình một khối thiếp xin mang”3Không chồng mà chửaTrào phúng trong thơ Xuân Hương được thể hiện bằng nhiều cung bậc cảm xúckhác nhau. Hả hê có, thích thú có nhưng đắng cay có, chua xót cũng nhiều. Tiếngcười mang ý nghĩa sâu sắc và ẩn chứa trong đó là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệtvà không chỉ trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương còn rất đậm đà chất trữ tình đặc II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONGTHƠ HỒ XUÂN HƯƠNG1. Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể điệu bộ, cử chỉ, tính cáchĐể góp phần tạo nên thành công trong việc xây dựng nghệ thuật trào phúng,chúng ta không thể không nhắc đến tài năng khắc họa hình tượng nhân vật của HồXuân Hương. Bà đã phác nên những nét rất riêng cho các nhân vật của mình mộtcách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình bằng những từ ngữ, câu thơdài dòng. Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật và thông qua đó biểu lộ thái độ của bảnthân“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơ”Ong non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!”Lũ ngẩn ngơTrong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, một ngày kia, Hồ XuânHương đi thăm chùa Trấn Quốc về, bà đang lững thững đi bên bờ hồ Tây thì có vàitên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa ra hòng trên ghẹo. Xuân Hương vẫnlặng thinh không nói, nhưng đến khi nghe cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịuđược, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho bài thơ. Chỉ với một từ “ngẩn ngơ” ngaycâu đầu tiên đã phác họa toàn bộ dáng vẻ của những tên văn sĩ nửa mùa nhưng haytỏ vẻ. Chúng tuy mang tiếng chữ nghĩa đầy mình nhưng khi thốt ra cũng chẳng khác4gì “lũ ngẩn ngơ”, không biết gì, để đến nỗi một cô gái trẻ phải “dạy” lại. Hồ XuânHương gọi chúng là “dê cỏn” chứ không phải dê con, vì dê con là dê còn nhỏ, cònngây thơ, “dê cỏn” là hạng dê mới lớn, có cái vẻ ngang ngược, tự đắc. Cách gọi“ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể hiện rất thành công bản chất titoe của những anh nửa trẻ con nửa người lớn. Bọn chúng chỉ là những kẻ “ngựa nonháu đá”, hợm hĩnh chứ thực chất không có một chút học thức thật sự nào. Có thểnói, cái thú vị, hóm hỉnh của Xuân Hương khiến chúng ta bật cười, cười vì thích thúxen lẫn nể phục vì tuy là nữ nhi, nhưng tài nghệ văn chương của bà còn hơn hẳn cáithứ mang danh “thầy” nửa mùa trong bài “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo chúng ta hay nghĩtới mỗi khi nhắc đến chùa chiền, Phật giáo đã không còn thấy trong thơ bà nữa“ Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,Đầu thì trọc lốc, áo không dâng trước mặt dăm ba phẩm,Vải núp sau lưng sáu bảy cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi lâu có lẽ lên Sư cụ,Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.”Sư hổ mangĐầu trọc thì rất đỗi bình thường, sư nào mà đầu chẳng trọc? Thế nhưng khi đikèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư hiện lên đầy vẻthấy mỉa mai, đùa cợt. Ban ngày cũng như bao nhà sư khác, cũng cúng dường,“oảndâng” Phật rất bình thường, ấy thế mà ẩn sau đó, cái “sắc dục” vẫn quẩn quanh , vâyhãm lấy nhà sư. Không chỉ thế, chùa chiền vốn là chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, ấyvậy mà sao sư với vãi cứ như đang chơi trò chơi của đám con nít?! Ở chùa chỉ cóchuông, mõ mà đây lại có đủ thứ nhạc khí như một phường bát âm "Khi cảnh, khi5tiu, khi chũm chọe". Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng nào thì đổi "Giọnghì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ bằng một vài hình ảnh cùng cửchỉ, giọng điệu thôi nhưng đã toát hình tượng một nhà sư mà người đời kính trọngtrở nên biến chất về mặt đạo đức đến mức nào trong cái xã hội lúc bấy khắc họa nhân vật của Hồ Xuân Hương vô cùng đơn giản nhưng lại toát lênhương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ của bà. Chỉ bằng một vài nétchấm phá, hình tượng con người hiện lên với đầy đủ những đặc điểm, tính chấtmà Xuân Hương muốn đề cập đến. Đó không phải là điều mà bất cứ nhà thơ nàocũng có thể thực hiện được, nhưng ta thấy rất rõ nét trong nhiều bài thơ của “bà chúathơ Nôm” Hồ Xuân Cách sử dụng từ ngữNếu như so sánh các kiểu lựa chọn từ ngữ của Bà Huyện Thanh Quan với cáchsử dụng từ ngữ của Hồ Xuân Hương, ta sẽ thấy có sự đối nghịch rõ nét giữa haingười. Cùng là miêu tả về đèo nhưng câu chữ của Bà Huyện Thanh Quan sangtrọng, mực thước và mang phóng cách thơ văn “quý tộc”“Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoaLom khom dưới núi, tiều vài chúLác đác bên sông, chợ mấy nhà”Qua Đèo NgangTrong khi đó, Đèo Ba Dội của Hồ Xuân Hương vô cùng gần gũi, thân thuộc hơnrất nhiều. Nếu đứng về phương diện ý nghĩa thanh nhã mà so sánh thì bài thơ của BàHuyện Thanh Quan như là một bức hình đen trắng bằng phẳng còn bài Đèo Ba Dộinhư là một bức tranh nổi ba chiều sống động đầy màu sắc và âm XuânHương không chiêm nghiệm cuộc sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởngtất cả âm thanh, màu sắc, hình khối… của vạn vật trong trạng thái sung mãn nhất6của nó. Nữ thi sĩ tài hoa đã khai thác triệt để khả năng tu từ phong phú của ngôn ngữdân tộc và hơn bao giờ hết, nghệ thuật trào phúng cũng được bà mài giũa bén nhọnhơn. Tài năng về mặt ngôn ngữ không chỉ biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnhvật thiên nhiên, mà khi muốn trào lộng một ai đó, bà còn có thể khiến chúng, dù chocó là bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay thậm chí là bậc “vua”, “chúa” đinữa cũng phải mất đi cái vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần những kẻ giả dối màluôn khoác lên thân chiếc áo đạo đức cao sang . Cả cái tiếng xưng hô với thần thánh“đây”, “đấy” của bà khi đứng trước Đền Sầm Nghi Đống cũng nghe đầy vẻ kể cả,xách mé“Ví đây đổi phận làm trai được,Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!”Đền Sầm Nghi ĐốngKhông chỉ thế, việc sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới lạ, cách thức dùng cũng rất“Xuân Hương”. Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng “cửa son”, “bậc đá”,“lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… càng làm tác độngmạnh lên thần kinh cảm giác của người đọc, buộc người đọc không muốn hình dungcũng phải hình dung. Trong thơ của Hồ Xuân Hương luôn tràn ngập những động từmạnh, có những từ bản thân nó đã là động từ mạnh nhưng có lẽ nữ thi sĩ cũng chưavừa ý, bà còn gắn thêm vào nó những phó từ bổ nghĩa mà ta có thể thấy trong bài Tựtình III“Xiên ngang mặt đất rêu từng toạc chân mây đá mấy hòn.”Tự tình IIITừ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe và động tác trở nên“ngọt” hơn, cũng như “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nó đâmvút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc cả bầu trời, mà như không có gì có7thể ngăn cản nổi. Sự thêm thắt đầy sáng tạo này tạo nên chất mạnh mẽ trong thơ HồXuân lẽ đặc biệt nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là cách sử dụng từ láy rất mới từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, thế luồn lách, chông chênh, nhữngcử động nhanh mạnh như “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, …Chỉ một từ thôi mà có thể diễn tả các chiều của không gian, rộng và sâu hun hút“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm hom”Động Hương TíchHay“Trời đất sinh ra đá một chòmNứt làm hai mảnh hỏm hòm hom”Hang Cắc CớĐể diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” trong hai bài“Hang Cắc Cớ” và “Động Hương Tích”. Không phải là “hun hút”, “thăm thẳm” màlà “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” càng làm mở rộng thêm độsâu tận cùng của hang, đồng thời cho thấy cả chiều rộng lẫn chiều cao của hangđộng, càng kích thích trí tò mò của con người. Một từ thôi mà đã có thể diễn đạtđược đa chiều của không gian trong khi đó, khi nhìn lại các dòng thơ thời đại đổ vềsau, ta khó mà kiếm ra được những câu thơ đặc biệt đến vậy. Thơ của Huy Cận đãtài tình rồi nhưng vẫn không tránh khỏi dùng nhiều từ chỉ không gian để dẫn giải vềcác chiều không gian“Nắng xuống trời lên sâu chót dài trời rộng bến cô liêu”Tràng giangKhông chỉ tài tình trong cách khắc họa, xây dựng nhân vật và sử dụng từ ngữ độcđáo, “tính dục” trong thơ Hồ Xuân Hương cũng là một trong những thứ góp phầnxây dựng thành công nghệ thuật trào phúng. Đã có rất nhiều ý kiến bàn cãi về thơHồ Xuân Hương và cũng rất nhiều lời nhận định được đưa ra. Liệu thơ của bà cóhay không tồn tại yếu tố “dâm” và “tục”? Tuy thế, có một điều mà không ai có thểphủ nhận được rằng, ẩn sâu dưới từng câu từng chữ trong thơ của bà là một cái gì đórất đỗi đặc biệt để rồi nhận ra nó, tiếng cười sẽ bật ra một cách vô cùng tự Xuân Hương đã rất khéo léo khi lồng ghép những ý tứ “thầm kín” dưới lớpbề nổi của cái “thanh tao”“Một đèo, một đèo lại một đèoKhen ai khéo tạc cảnh cheo leoCửa son đỏ loét tùm hum nócHòn đá xanh rì lún phún rêu” Đèo Ba DộiĐọc bài thơ ta có thể thấy rõ Hồ Xuân Hương đang miêu tả về vẻ đẹp của ĐèoBa Dội. Một đèo Ba Dội với cỏ cây mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thì thấy đất đỏdưới chân, hang động cũng màu đỏ thì chẳng có gì khiến ta phải phân vân, nhưngkhi lí giải những dòng thơ của bà dưới góc độ phồn thực, chúng ta sẽ cảm thấy thúvị bởi những hình ảnh tưởng chừng như chân thực ấy lại mang một tầng nghĩa sâuxa, sống động đến kì lạ. Nói mà như không nói, tả mà như không tả mà để người đọctự khơi dậy trí tưởng tượng của mình. Bả không nói toạc ra những điều thầm kín10trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửigắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên. Trong thời đại Nho giáophong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thậtvới tình yêu, hôn nhân,.. của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gòbó theo lề lối. Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là HồXuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tìnhcảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầnglớp thống trị mục trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúngta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến cảnh chơi đu của trai, gáithời xưa.“Bốn cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngTrai đu gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng cong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân có biết xuân chăng táCọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không !”Đánh đuSự khéo léo, nhịp nhàng của các cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không chỉ gợi sức hút về mặt thẩm mỹ mà còn thông qua đó, ta cóthể cảm nhận được niềm vui của đôi trai gái khi tham gia trò chơi đánh đu trong lễhội làng quê. Đặc biệt từ “cật” ở câu luận là một danh từ chỉ bộ phận cơ thể nhưngđứng sau từ láy “khom khom” nó thường được hiểu là một động từ, vần “at” trắc caonhư các âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục... càng chothấy sự hào hứng khi chơi đu. Kông chỉ thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” được thi11sĩ phác họa hết sức sống động mà không bút vẽ của một họa sĩ nào có thể làm gì có ai vẽ được nên bức tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cáihay là ở chỗ “đánh đu” mà lại không phải là đánh đu. Một bài thơ với nhiều lớpnghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa,chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiềnnhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng. Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìnthấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày”“Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậmMột lạch Đào Nguyên suối chửa thông”thì“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứtĐi thì cũng dở ở không xong”Thiếu nữ ngủ ngàyChỉ một từ láy “dùng dằng” thôi cũng đủ để lột tả sự phân vân, tranh đầu nội tâmdữ dội nên đi hay nên ở? Đi thì tiếc vì lỡ dịp may lạ lùng, được chiêm ngưỡng tấmthân ngọc ngà nằm trên chõng kia ngàn năm mới có một. Ở thì không xong vì lỡ nhưcó người trông thấy, cũng có thể cô gái kia tỉnh lại, rồi tiếng lành đồn xa chịu sự chêcười. Và cho đến cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định“đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộnkhông thể kìm chế được. Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìncàng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được. Ôi oái oăm thay!4. Biện pháp tu từMột trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ XuânHương là biện pháp nói lái. Nói lái là biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âmđầu, vần và thanh điệu giữa hai hay nhiều âm tiết để tạo nên những lượng ngữ nghĩamới bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui. ây là hình thức chơi chữ đặc biệt12của các ngôn ngữ phân tiết như tiếng Việt có từ rất lâu đời và thường thấy trong vănhọc dân gian. Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa“Con cá đối nằm trong cối đáCon mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo”HayCam sành nhỏ lá thanh ươngNgọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anhThanh ương là tuổi mong chờMột mai nhái lặn chà quơ, quơ chà.Ca daoQua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệthuật rất đặc trưng trong thơ bà. Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từtừng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người tachiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còncảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đàchất nghệ thuật trong tác phẩm của bà“Cái kiếp tu hành nặng đá đeoLàm chi một chút tẻo tèo teoThuyền từ cũng muốn về Tây TrúcTrái gió cho nên phải lộn lèo”Sư hoạnh dâmXét bề mặt ngữ nghĩa của từng từ đều có ý nghĩa, tạo nên một nội dung thốngnhất, hoàn chỉnh. “Lộn lèo” là dây lèo của thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngượctrở lại, “trái gió” là ngược gió. Tuy nhiên khi lái lại, bài thơ lại tạo nên một lớp nghĩakhác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân nhưng mục đích vẫn là xoáysâu vào nhân vật được nhắc đến. Luận ra nghĩa thứ hai, các hoạt động đó cũng thuộc13về ông sư, bà vãi, chú tiểu… chứ còn ai vào đây? Tài tình ở chỗ những từ ngữ nàyđều mang nghĩa và không quá sống sượng, chớt nhã, khiêu dục…Ở một góc độ khác, sự tài tình của Hồ Xuân Hương thể hiện ở việc dùng cáctừ thuộc cùng một trường từ vựng trong thơ. Bài thơ Khóc Tổng Cóc, trong 28 chữđã có 5 từ chỉ những con vật thuộc loài cóc “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”,“chẫu chuộc”, “cóc”. Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có rất nhiều từ chỉ các vị thuốc“cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả các từchỉ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bêncạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ càng làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hìnhcho bức tranh với những đường nét cơ bản mà Xuân Hương phác thảo nên. Mượnhình ảnh ốc nhồi hay quả mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, tỏ vẻ thanh caonhưng thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm của những cô gái nhà lành và thông quađó, nữ thi sĩ cũng thể hiện ước mơ về hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn. “Bánh trôi nước”mà nữ sĩ từng nhắc đến chính là vẻ đẹp hình thể, tâm hồn của người con gái thânphận bé nhỏ, dù cho đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập thì “em vẫn giữ tấm lòngson. “Tấm lòng son " là biểu hiện phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hộiphong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm laychuyển LUẬNHồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nóinhững gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh. Ngôn ngữXuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình chỉ thế, bằng ngòi bút xuất sắc của mình, nữ sĩ đã khéo léo đưa nghệ thuậttrào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũngthông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người14phụ nữ cũng được tái hiện lên. Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ,cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau. Chính vì thế, thơ văn Hồ XuânHương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng rất đậm nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác LIỆU THAM Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiệntượng Hồ Xuân Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tínngưỡng phồn Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ”.Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ XuânHương dưới góc độ so sánh.”10. Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ và đời, 2010. Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm, Chửi, Trào Phúng ❤️️ Hay Nhất ✅ Tổng Hợp Những Bài Thơ Trào Phúng Hay Nhất Của Bà Chúa Thơ Nôm Cho Các Bạn. Những Bài Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm Hay Thơ Hồ Xuân Hương Chửi Độc ĐáoChùm Thơ Trào Phúng Hồ Xuân Hương HayNhững Bài Thơ Nổi Tiếng Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất Tặng bạn những bài thơ châm biếm hay nhất của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Chế sưTác giả Hồ Xuân Hương Chẳng phải Ngô chẳng phải ta,Đầu thì trọc lốc áo không dâng trước mặt dăm ba phẩm,Vãi nấp sau lưng sáu bảy cảnh khi tiu khi chũm choẹ,Giọng hì giọng hỉ giọng hi lâu có nhẽ lên sư cụ,Ngất nghểu toà sen nọ đó mà. Không chồng mà chửaTác giả Hồ Xuân Hương Cả nể cho nên hoá dở dang,Sự này có thấu hỡi chăng thiên chưa thấy nhô đầu dọc,Phận liễu sao mà nảy nét tội trăm năm chàng chịu cả,Chữ tình một khối thiếp xin chi miệng thế lời chênh lệch,Chẳng thế nhưng mà thế mấy ngoan. Chiếc BáchTác giả Hồ Xuân Hương Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh khoang tình nghĩa dường lai lángNửa mạn phong ba luống bập bềnhCầm lái mặc ai lăm đỗ bếnDong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnhấy ai thăm ván cam lòng vậyNgán nỗi ôm đàn những tấp tênh! Sư hoạnh dâmTác giả Hồ Xuân Hương Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,Làm chi một chút tẻo tèo từ cũng muốn về Tây Trúc,Trái gió cho nên phải lộn lèo. Lỡm học tròTác giả Hồ Xuân Hương Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,Lại đây chị dạy lối làm non ngứa lợi châm hoa rữa,Dê bé buồn sừng húc giậu thưa. Miếu Sầm thái thúTác giả Hồ Xuân Hương Ghé mắt trông lên thấy bảng treo,Kìa đền Thái thú đứng cheo đây đổi phận làm trai được,Thì sự anh hùng há bấy nhiêu. Khóc chồng làm thuốcTác giả Hồ Xuân Hương Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì,Thương chồng nên phải khóc tì ngào thiếp nhớ mùi cam thảo,Cay đắng chàng ôi vị quế nhũ trần bì sao để lại,Quy thân liên nhục tẩm đem cầu thiếp biết trao ai nhỉ,Sinh ký chàng ôi tử tắc quy. Sưu tầm những bài 🌻 Thơ Châm Biếm Thói Đời 🌻 hay nhất cho mọi người. Thơ Hồ Xuân Hương Chửi Độc Đáo Gợi ý cho bạn thưởng thức chùm thơ chửi đầy ấn tượng của thi sĩ Hồ Xuân Hương. Lấy chồng chungTác giả Hồ Xuân Hương Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,Chém cha cái kiếp lấy chồng chừng mười hoạ hay chăng chớ,Một tháng đôi lần có cũng đấm ăn xôi xôi lại hỏng,Cầm bằng làm mướn mướn không này ví biết dường này nhỉ,Thời trước thôi đành ở vậy xong. Vô âm nữTác giả Hồ Xuân Hương Mười hai bà mụ ghét gì nhau,Đem cái xuân tình cắm ở rích thây cha con chuột nhắt,Vo ve mặc mẹ cái ong ai biết được vông hay chóc,Nọ kẻ chia ra cuống mấy thế thời thôi thôi cũng rảnh,Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu. Chùa Quán SứTác giả Hồ Xuân Hương Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?Chày kình tiểu để suông không đấm,Tràng hạt vãi lần đếm lại banh không kẻ khua tang mít,Trưa trật nào người móc kẽ kiếp đường tu sao lắt léo,Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo. Gửi bạn chùm 🌻 Thơ Châm Biếm Mẹ Chồng Nàng Dâu 🌻 hay nhất. Chùm Thơ Trào Phúng Hồ Xuân Hương Hay Hãy thưởng thức chùm thơ trào phúng của nhà thơ Hồ Xuân Hương dưới đây nhé. Quả mítTác giả Hồ Xuân Hương Thân em như quả mít trên cây,Da nó xù xì múi nó tử có yêu xin đóng cọc,Đừng mân mó nữa nhựa ra tay. Cái giếngTác giả Hồ Xuân Hương Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,Giếng tót thanh thơi rất lạ trắng phau phau hai ván ghép,Nước trong leo lẻo một dòng gà lún phún leo quanh mép,Cá diếc le te lội giữa ấy thanh tân ai đã biết,Đố ai dám thả nạ rồng rồng. Vịnh nằm ngủTác giả Hồ Xuân Hương Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,Tiên nữ nằm chơi quá giấc trúc chải cài trên mái tóc,Yếm đào trễ xuống dưới nương gò Bồng Đảo sương còn ngậm,Một lạch Đào Nguyên suối chửa tử dùng dằng đi chẳng dứt,i thì cũng dở ở sao xong. Đèo Ba DọiTác giả Hồ Xuân Hương Một đèo một đèo lại một đèo,Khen ai khéo vẽ cảnh cheo son tía ngắt lơ thơ móc,Đường đá xanh rì lún phún phất chồi thông cơn gió tốc,Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương nhân quân tử ai là chẳng,Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo. Hang Cắc CớTác giả Hồ Xuân Hương Trời đất sinh ra đá một chòm,Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hầm rêu mọc trơ toen hoẻn,Luồng gió thông reo vỗ phập nước hữu tình rơi lõm bõm,Con đường vô ngạn tối om ai đẽo đá tài xuyên tạc,Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm. Đánh đuTác giả Hồ Xuân Hương Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,Trai co gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa mảnh quần hồng bay phấp phới,Hai hàng chân ngọc duỗi song xuân đã biết xuân chăng nhổ đi rồi, lỗ bỏ không! Tặng bạn những bài 🌻 Thơ Châm Biếm Đàn Ông Ngoại Tình 🌻 thú vị. Những Bài Thơ Nổi Tiếng Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất Tổng hợp những bài thơ châm biếm nổi tiếng nhất của Hồ Xuân Hương cho bạn đọc thưởng thức. Bánh trôi nướcTác giả Hồ Xuân Hương Thân em thời trắng phận em tròn,Bảy nổi ba chìm mấy nước nát mặc dầu tay kẻ nặn,Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son. Đánh cờTác giả Hồ Xuân Hương Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,ốt đèn lên đánh cuộc cờ rằng đấu trí mà chơi,Cấm ngoại thuỷ không ai được tướng sĩ dàn ra cho hết,ể đôi ta quyết liệt một thiếp trắng, quân chàng đen,Hai quân ấy chơi nhau đà đã mới vào chàng liền nhảy ngựa,Thiếp vội vàng vén phứa tịnh xe hà, chàng gác hai bên,Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh lừa thiếp đương khi bất ý,em tốt đầu dú dí vô cung,Thiếp đang mắc nước xe lồng,Nước pháo đã nổ đùng ra bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,Thua thì thua quyết níu lấy vui nước nước non non,Khi buồn lại giở bàn son quân ngà. Cái QuạtTác giả Hồ Xuân Hương Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừaDuyên này tác hợp tự ngàn xưaChành ra ba góc da còn thiếuKhép lại đôi bên thịt vẫn thừaMát mặt anh hùng khi tắt gióChe đầu quân tử lúc sa mưaNâng niu ướm hỏi người trong trướngPhì phạch trong lòng đã sướng chưa Dệt Cửi ĐêmTác giả Hồ Xuân Hương Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phauCon cò mấp máy suốt đêm thâuHai chân đạp xuống năng năng nhắcMột suốt đâm ngang thích thích mauRộng hẹp nhỏ to vừa vặn cảNgắn dài khuôn khổ vẫn như nhauCô nào muốn tốt ngâm cho kỹChờ đến ba thu mới dãi mà Đưa ĐòTác giả Hồ Xuân Hương Chú lái kia ơi, biết chú rồi,Qua sông rồi lại đấm ngay bòi!Chèo ghe vừa khỏi dòng sông ngược,Đấm cọc ngay vào ngấn nước biết lên bờ đà vỗ đít,Nào khi giữa khúc đã co đò nên nghĩa sao không nhớ?Sang nữa hay là một chuyến thôi? Thương Ôi Phận GáiTác giả Hồ Xuân Hương Thương ôi phận gái cũng là chồngGhét bỏ nhau chi hỡi Nguyệt ôngRồng tắm ao tù từng phận tủiMưa gieo xuống giếng uổng lòng mongXót thân hoa nở song lầm cátThẹn mặt trần ai đứng giữa vòngÂu hẳn tiền nhân sao đấy táThôi đành một kiếp thế cho xong Ương Ôi Phận GáiTác giả Hồ Xuân Hương Thương thay phận gái cũng là ngườiNỡ bỏ xuân xanh quá nửa đờiÔng Nguyệt nỡ nào trêu quải mãiChị Hằng khéo nhẽ éo le thôiHoa còn phong nhụy ong ve vãyGió đã phai hương bướm tả tơiQuá ngán thợ trời ghê gớm bấyXuân xanh được mấy chút thương ôi Thương Phận Người Đàn BàTác giả Hồ Xuân Hương Hỡi chị em ơi có biết khôngMột bên con khóc một bên cu lổm ngồm bò trên bụng,Thằng bé hu hơ khóc dưới cả những là thu với vénVội vàng nào những bống cùng con cái nợ là như thế,Hỡi chị em ơi có biết không ? Ốc NhồiTác giả Hồ Xuân Hương Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồiĐêm ngày lăn lóc đám cỏ hôiQuân tử có thương thì bóc yếmXin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi Tát NướcTác giả Hồ Xuân Hương Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,Rủ chị em ra tát nước đẽo chiếc gầu ba góc chụm,Lênh đênh một ruộng bốn bờ xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt việc làm ăn quên cả mệt,Dạng hang một lúc đã đầy phè. Vịnh Đời NgườiTác giả Hồ Xuân Hương Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngàyDẫu có ngàn vàng khó đổi thayTrong núi ngàn năm cây vẫn cóDưới trần trăm tuổi dễ không aiNghĩ đường danh lợi lòng thêm chánThấy kẻ gian ngoan bụng lại đầyĐắng xót ghê thay mùi tục lụyBực mình theo Cuội tới cung mây Đá Ông Bà ChồngTác giả Hồ Xuân Hương Khéo khéo bày trò tạo hoá côngÔng Chồng đã vậy lại Bà ChồngTầng trên tuyết điểm phơ đầu bạcThớt dưới sương pha đượm má hồngGan nghĩa dãi ra cùng chị NguyệtKhối tình cọ mãi với non sôngĐá kia còn biết xuân già giặnChả trách người ta lúc trẻ trung Hãy đọc thử những bài 🌻 Thơ Về Cuộc Đời 🌻 ý nghĩa mà chúng tôi sưu tầm cho bạn. Những Bài Thơ Nôm Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng Nhất ❤️️ Chùm Thơ Chữ Hán Hay ✅ Tổng Hợp Những Tập Thơ Xuất Sắc Nhất Của Bà Chúa Thơ Nôm Dưới Đây. Những Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Nổi TiếngTuyển Tập Chùm Thơ Chữ Nôm Hồ Xuân Hương Bất HủCác Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất HủTập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất HủChùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là nhà thơ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng. Mời các ban đọc thưởng thức ngay Những Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Nổi Tiếng sau đây Bánh Trôi Nước Thân em vừa trắng lại vừa tròn,Bảy nổi ba chìm với nước nát mặc dầu tay kẻ em vẫn giữ tấm lòng son. Bỡn bà lang khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gìThương chồng nên nõi khóc tì tiNgọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảoCay đắng chàng ơi vị quế chiThạch nhũ, trần bì sao để lạiQuy thân, liên nhục tẩm mang điDao cầu thiếp biết trao ai nhỉSinh ký chàng ơi, tử đắc quy. Cái kiếp tu hành Cái kiếp tu hành nặng đá đeoVị gì một chút tẻo tèo teoBuồm từ cũng muốn về Tây TrúcTrái gió cho nên phải lộn lèo Cái nợ chồng con Hỡi chị em ơi có biết khôngMột bên con khóc một bên chồngBố cu lổm ngổm bò trên bụngThằng bé hu hơ khóc dưới hôngTất cả những là thu với vénVội vàng nào những bống cùng bôngChồng con cái nợ là như thếHỡi chị em ơi có biết không Chùa Quán Sứ Quán Sứ sao mà cảnh vắng teoHỏi thăm sư cụ đáo nơi neoChày kinh, tiểu đế suông không đấmTràng hạt vãi lần đếm lại đeoSáng banh không kẻ khua tang mítTrưa trật nào ai móc kẽ rêuCha kiếp đường tu sao lắt léoCảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo Chợ Trời chùa Thầy Hoá công xây đắp đã bao đời,Nọ cảnh Sài Sơn có chợ sớm gió đưa trưa nắng đứng,Ban chiều mây họp, tối trăng hàng hoa quả tứ mùa sẵn,Mở phố giang sơn bốn mặt lợi mua danh nào những kẻ,Chẳng nên mặc cả một đôi lời. Cảnh chùa ban đêm Tình cảnh ấy, nước non nàyDẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đâyHành Sơn mực điểm đôi hàng nhạnThứu Lĩnh đen trùm một thức mâyLấp ló đầu non vầng nguyệt chếchPhất phơ sườn núi lá thu bayHỡi người quân tử đi đâu đóThấy cảnh sao mà đứng lượm tay Cảnh thu Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,Trắng xóa tràng giang phẳng lặng giốc giang sơn say chấp rượu,Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơCho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ. Ngoài bà chúa thơ nômGiới thiệu đến bạn đọc chùm 🌻 Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm 🌻 trào phúng Tuyển Tập Chùm Thơ Chữ Nôm Hồ Xuân Hương Bất Hủ Có thể nói nét nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. Cùng cảm nhận rõ hơn qua Tuyển Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Đặc Sắc được sưu tầm dưới đây nhé! Dệt cửi Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phauCon cò mấp máy suốt đêm thâuHai chân đạp xuống năng năng chắcMột suốt đâm ngang thích thích mauRộng hẹp nhỏ to vừa vặn cảNgắn dài khuôn khổ cũng như nhauCô nào muốn tốt ngâm cho kỹChờ đến ba thu mới dãi màu Dỗ người đàn bà khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồngNín đi kẻo thẹn với non sôngAi về nhắn nhủ đàn em béXấu máu thì khem miếng đỉnh chung Đá Ông Chồng Bà Chồng Khéo khéo bày trò tạo hoá côngÔng Chồng đã vậy lại Bà ChồngTầng trên tuyết điểm phơ đầu bạcThớt dưới sương pha đượm má hồngGan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệtKhối tình cọ mãi với non sôngĐã kia còn biết xuân già giặnChả trách người ta lúc trẻ trung Đài Khán Xuân Êm ái chiều xuân tới khán đàiLâng lâng chẳng bợn chút trần aiBa hồi triêu mộ chuông gầm sóngMột vũng tang thương nước lộn trờiBể ái nghìn trùng khôn tát cạnNguồn ân muôn trượng dễ khơi vơiNào nào cực lạc là đâu táCực lạc là đây chín rõ mười Đánh đu Bốn cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngTrai đu gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân hạc duỗi song songChơi xuân có biết xuân chăng táCọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không Đèo Ba Dội Một đèo, một đèo, lại một đèoKhen ai khéo tạc cảnh cheo leoCửa son đỏ loét tùm hum nócHòn đá xanh rì lún phún rêuLắt lẻo cành thông cơn gió thốcĐầm đìa lá liễu giọt suơng gieoHiền nhân quan tử ai mà chẳngMỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo Đền Sầm Nghi Đống Ghé mắt trông ngang thấy bảng treoKìa đền thái thú đứng cheo leoVí đây đổi phận là trai nhỉThì sự anh hùng há bấy nhiêu! Động Hương Tích Bày đặt kia ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm homNgười quen cõi Phật xen chân xoạcKẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòmGiọt nước hữu tình rơi thánh thótCon thuyền vô trạo cúi lom khomLâm tuyền quyến cả phồn hoa lạiRõ khéo trời già đến dở dom Giếng thơi Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ trắng phau phau đôi ván ghép,Nuớc trong leo lẻo một dòng gà lún phún leo quanh mép,Cá diếc le te lách giữa ấy thanh tân ai cũng biết,Đố ai dám thả nạ dòng dòng. Hang Cắc Cớ Trời đất sinh ra đá một chòmNứt làm hai mảnh hỏm hòm homKẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻnLuồng gió thông reo vỗ phập phòmGiọt nước hữu tình rơi lõm bõmCon đường vô ngạn tối om omKhen ai đẽo đá tài xuyên tạcKhéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm Đón đọc thêm 🔻 3 Tập Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du 🔻 bất hủ Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa Thơ Nôm”, bởi vậy Các Bài Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương luôn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho các bạn đọc, mỗi bài thơ đều là những tâm tư tình cảm mà tác giả gửi gắm vào. Hang Thánh Hoá Khen thay con tạo khéo khôn phàmMột đố giương ra biết mấy ngoàmLườn đá cỏ leo sờ rậm rạpLách khe nước rỉ mó lam nhamMột sư đầu trọc ngồi khua mõHai tiểu lưng tròn đứng sau amĐến mới biết là Hang Thánh HoáChồn chân mỏi gối vẫn còn ham! Hỏi trăng Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?Năm canh lơ lửng chờ ai đó?Hay có tình riêng với nước non? Khóc ông phủ Vĩnh Tường Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!Cái nợ ba sinh đã trả chặt văn chuơng ba thước đất,Tung hê hồ thỉ bốn phương cân tạo hóa rơi đâu mất,Miệng túi càn khôn khép lại bảy tháng trời là mấy chốc,Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi! Không chồng mà chửa Cả nể cho nên hoá dở dangNỗi niềm chàng có biết chăng chàngDuyên thiên chưa thấy nhô đầu trọcPhận liễu sao đà nảy nét ngangCái nghĩa trăm năm chành nhớ chửaMảnh tình một kiếp thiếp xin mangQuản bao miệng thế lời chệnh lệchKhông có, nhưng mà có, mới ngoan Kẽm Trống Hai bên thì núi giữa thì sôngCó phải đây là Kẽm Trống không?Gió giật sườn non khua lắc cắcSóng dồn mặt nước vỗ long ongỞ trong hang núi còn hơi hẹpRa khỏi đầu non đã rộng thùngQua cửa mình ơi! Nên ngắm lạiNào ai có biết nỗi bưng bồng Làm lẽ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùngChém cha cái kiếp lấy chồng chungNăm thì mười họa hay chăng chớMột tháng đôi lần có như khôngCố đấm ăn xôi xôi lại hẩmCầm bằng làm mướn mướn không côngThân này ví biết dường này nhỉThà trước thôi đành ở vậy xong Lũ ngẩn ngơ Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơÔng non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc giậu thưa Miếng trầu Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôiNày của Xuân Hương đã quệt rồiCó phải duyên nhau thì thắm lạiĐừng xanh như lá bạc như vôi Phường lòi tói Dắt díu nhau lên đến cửa chiềnCũng đòi học nói, nói không nênAi về nhắn bảo phường lòi tóiMuốn sống đem vôi quét trả đền. Quan thị Mười hai bà mụ ghét chi nhauĐem cái xuân tình vứt đi đâuRúc rích thây cha con chuột nhắtVo ve mặc mẹ cái ong bầuĐố ai biết đó vông hay trốcCòn kẻ nào hay cuống với đầuĐã thế thì thôi thôi mặc thếTrăm năm càng khỏi tiếng nương dâu Bật mí cho bạn đọc tập 💙 Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Trãi 💙 nổi tiếng Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ Tiếp theo là Tập Thơ Chữ Nôm Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ, mời bạn đọc cùng đón đọc thêm nhé! Sư bị ong châm Nào nón tu lờ nào mũ thâmĐi đâu chẳng đội để ong châmĐầu sư há phải gì… bà cốtBá ngọ con ông bé cái nhầm Sư hổ mang Chẳng phải Ngô, chẳng phải taĐầu thì trọc lốc áo không tàOản dâng trước mặt dăm ba phẩmVãi núp sau lưng sáu bảy bàKhi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹGiọng hì, giọng hỉ, giọng hi haTu lâu có lẽ lên sư cụNgất nghểu toà sen nọ đó mà Tát nước Đang cơn nắng nực chợt mưa tèRủ chị em ra tát nước kheLẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụmLênh đênh một ruộng bốn bờ beXì xòm đáy nước mình nghiêng ngửaNhấp nhổm bên ghềnh đít vắt veHam việc làm ăn quên cả mệtDạng hang một lúc đã đầy phè Thiếu nữ ngủ ngày Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,Thiếu nữ nằm chơi quá giấc trúc lỏng cài trên mái tóc,Yếm đào trễ xuống dưới nương gò Bồng Đảo hương còn ngậm,Một mạch Đào Nguyên suối chửa tử dùng dằng đi chẳng dứtĐi thì cũng dở ở không xong. Tranh tố nữ Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?Chị cũng xinh mà em cũng lứa như in tờ giấy năm còn mãi cái xuân mai chi dám tình trăng gió,Bồ liễu thôi đành phận mỏng manhCòn thú vui kia sao chẳng vẽ,Trách nguời thợ vẽ khéo vô tình. Trăng thu Một trái trăng thu chín mõm mòmNày vừng quế đỏ, đỏ lòm lomGiữa in chiếc bích khuôn còn méoNgoài khép đôi cung cánh vẫn khòmGhét mặt kẻ trần đua xói mócNgứa gan thằng Cuội đứng lom khomHỡi người bẻ quế rằng ai đóĐó có Hằng Nga ghé mắt dòm Trống thủng Của em bưng bít vẫn bùi ngùiNó thủng vì chưng kẻ nặng vắng đập tung dăm bảy chiếc,Đêm thanh đánh lộn một đôi dang thẳng cánh bù khi cúi,Chiến đứng không thôi lại chiến nhủ ai về thương lấy với,Thịt da ai cũng thế mà thôi. Tự tình I Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,Oán hận trông ra khắp mọi thảm không khua mà cũng cốc,Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,Sau giận vì duyên để mõm tử văn nhân ai đó tá?Thân này đâu đã chịu già tom! Tự tình II Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,Trơ cái hồng nhan với nước rượu hương đưa say lại tỉnh,Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,Xiên ngang mặt đất, rêu từng toạc chân mây, đá mấy nỗi xuân đi xuân lại lại,Mảnh tình san sẻ tí con con! Tự tình III Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,Giữa dòng khao khát nỗi lênh khoang tình nghĩa dường lai láng,Nửa mạn phong ba luống bập lái mặc ai lăm đỗ bến,Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ai thăm ván cam lòng vậy,Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh. Vịnh cái quạt Mười bảy hay là mười tám đây,Cho ta yêu dấu chẳng rời dày chừng ấy, chành ba góc,Rộng hẹp dường nào, cắm một nóng bao nhiêu thời càng mát,Yêu đêm không phỉ lại yêu hồng má phấn duyên vì cậy,Chúa dấu vua yêu một cái này. Vịnh cái quạt II Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,Duyên em dính dán tự bao ra ba góc da còn lại đôi bên thị vẫn mặt anh hùng khi tắt gió,Che đầu quân tử lúc sa niu ướm hỏi người trong trướng,Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ? Gửi tặng bạn chùm 💜 Thơ Chữ Hán Của Hồ Chí Minh 💜 hay nhất Chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất Đừng bỏ lỡ Chùm Thơ Chữ Hán Của Hồ Xuân Hương Hay Nhất được sưu tầm sau đây Độ Hoa Phong – 渡華封 片帆無急渡華封,峭壁丹崖出水中。水勢每隨山面轉,山形斜靠水門通。魚龍雜處秋煙薄,鷗鷺齊飛日照紅。玉洞雲房三百六,不知誰是水晶宮。 Phiên âm Hán Việt Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,Tiễu bích đan nhai xuất thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển,Sơn hình tà kháo thủy môn long tạp xử thu yên bạc,Âu lộ tề phi nhật chiếu động vân phòng tam bách lụcBất tri thùy thị Thủy Tinh cung Dịch nghĩa Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng nước tùy chỗ theo mặt núi mà biến núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa cò cùng bay trong ánh đỏ mặt trời Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây,Đây không biết chốn nào là cung Thủy Tinh. 過京瑤祠懷古 – Quá Khinh Dao từ hoài cổ 山海桑蓬古已來,長途著腳乍關懷。庭前象馬銀雙鎖,宮裡衣冠玉一堆。草木暗隨冬雪老,江山還為昔人哀。皇天有意開新運,風捲紅塵拂劫灰。 Phiên âm Hán Việt Sơn hải tang bồng cổ dĩ lai,Trường đồ trước cước sạ quan tiền tượng mã ngân song toả,Cung lý y quan ngọc nhất mộc ám tuỳ đông tuyết lão,Giang sơn hoàn vị tích nhân thiên hữu ý khai tân vận,Phong quyển hồng trần phất kiếp hôi. Hải ốc trù – 海屋籌 蘭橈隨意漾中流,景比山陽更覺幽。生面獨開雲露骨,斷鼇爭崎客回頭。馮夷疊作擎天柱,龍女添為海屋籌。大抵始皇鞭未及,古留南甸鞏金甌。 Phiên âm Hán Việt Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưuCảnh tỉ sơn dương cánh giác uSinh diện độc khai vân lộ cốtĐoạn ngao tranh kị khách hồi đầuBằng Di diệp tác kình thiên trụLong Nữ thiêm vi hải ốc trùĐại để Thuỷ Hoàng tiên vị cậpCố lưu Nam điện củng kim âu. Dịch nghĩa Phe phẩy mái chèo, tuỳ thích cỡi thuyền dong chơi giữa duềnh,Qua gần chân núi lại thấy cảnh càng thoảng qua, núi lộ mặt, thấy đá chơ vơ,Những khối lèn dựng cao vút khi qua dưới, khách phải vếch là hải thần Bằng Di đã dựng cột để chống trời nghiêng,Hoặc là hải thần Long Nữ đã nối thêm cây nêu trỏ cung điện dưới chừng vua Tần Thuỷ Hoàng chưa từng đi kinh lí đến chỗ này,Vì trời vốn dành nó lại ở xứ Nam này để làm vững chắc cơ đồ nước ta. 半枕書懷 – Bán chẩm thư hoài 半天風雨半天晴,旅況淒涼入夢醒。吟客有神來色相,情魔無力卻愁兵。衾中半瘦風流骨,榻上平分海角情。一片無聊言不盡,塵寰安得眼雙清。 Phiên âm Hán Việt Bán thiên phong vũ bán thiên tình,Lữ huống thê lương nhập mộng khách hữu thần lai sắc tướng,Tình ma vô lực khước sầu trung bán sấu phong lưu cốt,Tháp thượng bình phân hải giác phiến vô liêu ngôn bất tận,Trần hoàn an đắc nhãn song thanh. Dịch nghĩa Nửa trời mưa gió, nửa trời tạnh quangTình cảnh ở quán trọ thê lương mê rồi tỉnhKhách ngâm thơ có thần đến dáng vẻMa tình không sức rụt vũ khí buồnLúc ngủ trong chăn thì hao nửa thân mình phong nhãKhi “thức” trên giường thì chia đều biển ái ânMột cảnh không hứng thú không tả hếtCõi trần thường thích cả đôi mắt xanh. 鎮北寺 – Đề Trấn Quốc tự 莊臨誰是景中人,細細清風扇扇薰。水月波籠蓮插茁,香煙寶憩露連雲。洗空塵慮花含態,喚醒迷途草亦春。到景令人回首望,東南拂袖鴈成群。 Phiên âm Hán Việt Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,Tế tế thanh phong phiến phiến nguyệt ba lung liên tháp truất,Hương yên bảo thoại lộ liên không trần lự hoa hàm thoại,Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc cảnh linh nhân hồi thủ vọng,ông nam phất tụ nhạn thành quần. Dịch nghĩa Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi nước sóng vờn sen chen nụ,Khói hương tàn bám móc liền sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc cảnh khuyên người quay đầu ngắm,Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn. 眼放青 – Nhãn phóng thanh 微茫螺黛拓滄溟,到此須教眼放青。白水磨成千刃劍,寒潭飛落一天星。怪形未已標三甲,神力奚庸鑿五丁。仿佛雲頹頭暗點,高僧應有坐談經。 Phiên âm Hán Việt Vi mang loa đại tháp thương minh,Đáo thử tu giao nhãn phóng thuỷ ma thành thiên nhẫn kiếm,Hàn đàm phi lạc nhất thiên hình vị dĩ tiêu tam giáp,Thần lực hề dung tạc Ngũ phất vân đồi đầu ám điểm,Cao tăng ưng hữu toạ đàm kinh. Dịch nghĩa Mầu lam nhạt mờ mờ nối trời xa với bể xa,Đến đây, tưởng như trong aắt toả sắc xanh bạc mài đá thành nghìn mũi gươm nhọn,Giữa đầm vắng, hình như có một sao trời sa đá hình kì quái không dễ dùng làm bảng đề danh kẻ đỗ đại khoa,Nếu không sức thần thì sao tạc nổi tượng lực sĩ hùng dũng như phất mây xuống thấp, phía trên đã xẩm tối,Chắc đã có vị cao tăng ngồi yên lặng tụng kinh. 塞外聞砧 – Tái ngoại văn châm 倏聞江鼓戍江城,忽得寒砧奏耳聽。續斷霜中驚雁陣,依稀壁下亂虫聲。征夫欲破深閨夢,遊子還添故國情。得意不知勤苦藥,管弦韻韻間雞鳴。 Phiên âm Hán Việt Thúc văn giang cổ thú giang thành,Hốt đắc hàn châm tấu nhĩ đoạn sương trung kinh nhạn trận,Y hy bích hạ loạn trùng phu dục phá thâm khuê mộng,Du tử hoàn thiêm cố quốc ý bất tri cần khổ dược,Quản huyền vận vận gián kê minh. Dịch nghĩa Chợt nghe tiếng trống ở thành bên sôngBất ngờ hợp với tiếng chày lạnh nhịp bên taiLúc vang lúc bặt trong màn sương khiến bầy nhạn kinh sợPhảng phất dưới chân tường dế kêu loạn xạNgười lính muốn phá giấc mộng nơi khuê phòng của vợKhách dạo thuyền càng thêm nặng tình cố quốcMải mê suy nghĩ mà không hay có liều thuốc chữa khổ luỵTiếng sáo hoà với tiếng đàn chen lẫn tiếng gà gáy bình minh. 故京秋日 – Cố kinh thu nhật 冉冉征塵秋月斜,一盃還送舊繁華。一蘇水潦西流盡,三島晴光北望賒。燈月青氈悲故物,霜前白露落誰家。此來相對重相憶,客久年深奈若何。 Phiên âm Hán Việt Nhiễm nhiễm chinh trần thu nguyệt tà,Nhất bôi hoàn tống cựu phồn Tô thuỷ lạo tây lưu tận,Tam Đảo tình quang bắc vọng nguyệt thanh chiên bi cố vật,Sương tiền bạch lộ lạc thuỳ lai tương đối trùng tương ức,Khách cửu niên thâm nại nhược hà. 秋日即事 – Thu nhật tức sự 西風昨夜壓寒枝,籬菊蕭疏雪未飛。密雨斜篩紛水面,孤雲描織遠山眉。蓮餘殘夏留春帶,柳徬饒香老翠衣。啼鳥莫非知我況,聲聲長動故鄉思。 Phiên âm Hán Việt Tây phong tạc dạ áp hàn chi,Ly cúc tiêu sơ tuyết vị vũ tà si phân thuỷ diện,Cô vân miêu chức viễn sơn dư tàn hạ lưu xuân đới,Liễu bạng nhiêu hương lão thuý điểu mạc phi tri ngã huống,Thanh thanh trường động cố hương ty tư. Dịch nghĩa Đêm qua gió tây xô dạt cành câyDậu cúc lưa thưa tuyết chưa bayMưa lớn nghiêng đổ khuấy động mặt nước mặt phấn, mặt sángMây thưa thêu vẽ tránh xa nét mi xanh giống như màu núiSen thừa hạ hết dây xuân cũ sótLiễu tựa nhiều hương áo biếc xưaChim khóc chẳng ai không hiểu tình cảnh của mìnhTừng tiếng dài khuấy động tấm tình quê. 少年遊調 – Thiếu niên du điệu 瓊筳座花,𢒎觴對月,風流屬誰家?李子飛輝豪,徐妃援筆,思雅入詩歌。今夕是如何?促席談心。回燈敘事,撫筆一呵呵。 Phiên âm Hán Việt Quỳnh diên toạ hoa,Phi trường đối nguyệt,Phong lưu thuộc thuỳ gia?Lý tử phi hào,Từ phi viên bút,Tứ nhã nhập thi tịch thị như hà?Xúc tịch đàm đăng tự sự,Phủ bút nhất kha kha. 秋風歌 – Thu phong ca 秋風起兮白雲飛,草木黃落兮雁南歸。蘭有秀兮菊有芳,懷佳人兮不能忘。我有酒兮無對飲,我有琴兮無知音。不酌酒兮不鳴琴,數杯清茗兮故人心。 Phiên âm Hán Việt Thu phong khởi hề bạch vân phi,Thảo mộc hoàng lạc hề nhạn nam hữu tú hề cúc hữu phương,Hoài giai nhân hề bất năng hữu tửu hề vô đối ẩm,Ngã hữu cầm hề vô tri chước tửu hề bất minh cầm,Sổ bôi thanh dính hề cố nhân tâm. 入安邦 – Nhập An Bang 浪跡風塵未迓繮,漂零書劍入安邦。渠爐天地心千里,蝸角山河眼一雙。詩價感雲山鬼泣,愁城僚者酒兵降。興含欲借倂州剪,剪此其風水半間。 Phiên âm Hán Việt Lãng tích phong trần vị nhạ cương,Phiêu linh thư kiếm nhập An lô thiên địa tâm thiên lý,Oa giốc sơn hà nhãn nhất soang song.Thi giá cảm vân sơn quỷ khấp,Sầu thành liêu giả tửu binh hàm dục tá Tinh châu tiễn,Tiễn thử kỳ phong thuỷ bán giang. 漁翁曲行 – Ngư ông khúc hành 野翁淡泊亦繁花,錯認桃源是薜蘿。寄語挳舟從釣子,過江應不聽琵琶。過江莫聽琵琶,高聲不似胡笳悽涼。桃源水闊山長,漁翁一棹仙堂半開。萬重春鎖天台,琴聲樂角聲哀不同。寒山草色蔥蔥,蘇溪幾到清風自閑。 Phiên âm Hán Việt Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa,Thác nhận Đào Nguyên thị bệ ngữ khinh chu tòng điếu tử,Quá giang ưng bất thính tỳ giang mạc thính tỳ bà,Cao thanh bất tự Hồ già thê nguyên thuỷ khoát sơn trường,Ngư ông nhất trạo tiên đường bán trùng xuân toả Thiên Thai,Cầm thanh lạc, giốc thanh ai bất sơn thảo sắc thông thông,Tô khê kỷ đáo thanh phong tự nhàn. Dịch nghĩa Lão nhà quê ăn lạt mặc mỏng mà vẫn phong lưuÁo thô mà cứ tưởng sống cảnh tiênGởi lời người phụ câu quay thuyền về‎Qua sông không nghe được tiếng tỳ bà‎Qua sông chớ nghe tiếng tỳ bà‎Âm cao không giống kèn Hồ thê lương‎Đào Nguyên sông rộng núi dài‎Ngư ông chăm chú chèo, cửa tiên hé raVạn trùng xuân bến Thiên ThaiTiếng đàn vui, tiếng tù buồn không hoàNúi lạnh sắc cỏ xanh xanhSuối Tô tự đầy, gió mát tự nhàn 水雲鄉 – Thuỷ vân hương 雲根石竇似蜂房,滿目山光接水光。涉海鑿山癡李勃,負舟藏壑拜元章。螺痕夕霽嶙峋出,霧影朝迷次第藏。漫說漁人舟一葉,教重門戶水雲鄉。 Phiên âm Hán Việt Vân căn thạch đậu tự phong phòngMãn mục sơn quang tiếp thuỷ quangThiệp hải tạc hà si Lí BộtPhụ chu tàng hác bái Nguyên ChươngLoa ngân tịch tễ lân tuần xuấtVụ ảnh triêu mê thứ đệ tàngMạn thuyết ngư nhân chu nhất diệpSổ trùng môn hộ Thuỷ Vân hương. Dịch nghĩa Dưới chân mây, bày hang đá như tổ ông;Đầy mặt thấy ánh sáng trên núi tiếp với ánh sáng dưới bể để đi đục núi như Lí Bột thật là ngây,Đột thuyền lên cạn giấu trong hang như Nguyên Chương thì đáng phụcBuổi chiều trời lạnh, sóng gợn lăn tăn hiện ra,Ban sáng màn mù che núi lần lượt rút chuyện bảo rằng người chài dong chiếc thuyền kia,Đang len lỏi qua nhiều từng cửa tìm vào làng Tiên. 秋雨 – Thu vũ 天隔雲陰慘不明,蕭蕭秋雨落閒庭。短長枯樹枝頭淚,舒急黃蕉葉上聲。吟斷低迷千里夢,愁牽寥落五更情。深閨最苦如花面,一片愁容畫不成。 Phiên âm Hán Việt Thiên cách vân âm thảm bất minh,Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn trường khô thụ chi đầu lệ,Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng đoạn đê mê thiên lý mộng,Sầu khiên liêu lạc ngũ canh khuê tối khổ như hoa diện,Nhất phiến sầu dung hoạ bất thành. Dịch nghĩa Bầu trời mây che tăm tối ảm đạmMưa thu tí tách rơi ngoài sân vắngNhánh cây khô giọt lệ ngắn dàiLá chuối vàng tiếng giũ chậm nhanhKhóc dứt đê mê ngàn dặm mộngSầu vương lác đác năm canh tìnhPhòng khuê thật buồn như mặt hoaHình dáng nỗi buồn không hoạ được Xem thêm tập 💚 Thơ Chữ Hán 💚 Những Bài Nổi Tiếng Tình Yêu, Cuộc Sống Hồ Xuân Hương là một trong những gương mặt nổi bật trên văn đàn Việt Nam, với tư tưởng mới mẻ và lối làm thơ phá cách, các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều giá trị về việc nghiên cứu cho giới phê bình. Mặc dù sự nghiệp văn chương rất thành công nhưng Hồ Xuân Hương lại phải trải qua một cuộc đời nhiều bất hạnh, chính những nỗi đau ấy đã giúp cho tác giả đạt được thành tựu to lớn trên con đường sáng tác thi ca của mình. Vài nét về thân thế và cuộc đời của tài nữ họ Hồ Bà sinh năm 1772 tại Thăng Long có nguyên danh Hồ Phi Mai với biểu tự Xuân Hương, trong cuốn Giai nhân dị mặc chép rằng nhà thơ là con gái của Sinh đồ Hồ Phi Diễn, quê ở Nghệ An. Năm mười ba tuổi, sau khi thân phụ mất thì Hồ Xuân Hương theo mẹ về làng Thọ Xương đi học rồi ở nhà giúp việc. Bà có một tuổi thơ êm đềm ở dinh thự Cổ Nguyệt đường ven hồ Tây, khi ấy là nơi xa hoa bậc nhất Đàng Ngoài. Chân dung nhà thơ Hồ Xuân Hương Mẹ bà đã tái hôn với người khác sau khi mãn tang chồng, mặc dù sống trong ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến nhưng Hồ Xuân Hương vẫn có được tư chất thông minh và hiếu học, điều này được bộc lộ ở khả năng sáng tác tuyệt vời của bản thân. Thơ Hồ Xuân Hương được đánh giá cao với nét thanh thanh tục tục đặc sắc, những tác phẩm của bà đã đóng góp rất nhiều trong việc Việt hóa thể thơ Đường luật cũng như là thể hiện những tư tưởng tiến bộ vượt khỏi khuôn khổ thời đại bấy giờ. Bìa cuốn Lưu hương ký Hồ Xuân Hương có tập Lưu hương ký nổi tiếng với nhiều bài thơ khác được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Sau này bà tập trung sáng tác với chữ Nôm và tính đến nay, thi sĩ đã để lại cho đời hơn 150 tác phẩm có giá trị. ề tựa cho thi tập Lưu hương ký được phát hiện năm 1964, nhà phê bình Tốn Phong viết “Tứ thơ dồi dào nhưng vẫn tỏ ra vui mà không buông tuồng; buồn mà không đau thương; khốn khổ mà không lo phiền; cùng mà không bức bách. Thật là do tính tình nghiêm chỉnh mà ra. Cho nên, khi hát lên, ngâm lên những lời thơ ấy, thì tay cứ muốn múa, châm cứ muốn dậm mà không tự biết. Lưu hương ký tuy đầy vẻ gió, mây, trăng, móc, nhưng đều tự đáy lòng mà phát ra, biểu hiện thành lời nói, lại cũng đều đúng với cái ý trên kia là xuất phát từ mối tình mà biết dừng lại trên ân nghĩa.” Bên cạnh đó còn có nhiều giai thoại truyền miệng về lối sống phong lưu của Hồ Xuân Hương rằng bà là một nữ tử tài sắc vẹn toàn cùng những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ, Phạm Thái, Phạm Quý Thích, Trần Ngọc Quán và Nguyễn Du. Theo các nhà nghiên cứu, bà mất năm 1822 tại Hà Nội, mặc dù đã tìm kiếm nhiều năm nhưng cho đến nay, ngôi mộ của Hồ Xuân Hương ở đâu và những bí ẩn xoay quanh cuộc đời nhà thơ vẫn là dấu hỏi lớn trong lòng hậu thế. Những bất hạnh trong tình duyên đã giúp Hồ Xuân Hương trở thành nhà thơ phụ nữ Bi kịch của Hồ Xuân Hương bắt đầu khi bà làm lẽ Tổng Cóc, một cường hào có tính ăn chơi và tiêu xài hoang phí nên chẳng bao lâu thì nhà cửa sa sút và cộng thêm việc vợ cả ghen vì ông yêu quý tài nghệ của Hồ Xuân Hương nên bà bỏ đi biệt, chỉ để lại một lá thư từ giã. Sau khi bỏ nhà đi, bà hạ sinh một người con gái nhưng được ba tháng thì chết yểu, Tổng Cóc có tìm đến đòi con nhưng vô vọng. Bà làm bài thơ Khóc Tổng Cóc gửi ông để khóc cho mối tình cũ của mình, hai người xem như đoạn tuyệt tình nghĩa phu thê. “Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi, Thiếp bén duyên chàng có thế thôi. Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé, Nghìn vàng khôn chuộc “ – Khóc Tổng Cóc Sau này bà tiến đến với ông Phủ Vĩnh Tường, tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn và sinh cho ông một đứa con tên Phạm Viết Thiệu, thế nhưng hơn hai năm sau thì người chồng này của Hồ Xuân Hương cũng tạ thế. Có hai đời chồng không trọn vẹn đã khiến Hồ Xuân Hương mang tiếng sát phu Hai lần mất chồng đã khiến Hồ Xuân Hương thấm thía nỗi đau của những người phụ nữ phải chịu cảnh cô đơn nên khi nghe tiếng khóc từ bà lang, nhà thơ viết ra nhiều câu thơ thể hiện nỗi xót xa và đồng cảm sâu sắc. “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì, Thương chồng nên nõi khóc tì ti. Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo, Cay đắng chàng ơi vị quế chi. Thạch nhũ, trần bì sao để lại, Quy thân, liên nhục tẩm mang đi. Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ, Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy.” – Bỡn bà lang khóc chồng Có những nhà thơ trung đại lên tiếng bênh vực người phụ nữ như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn nhưng họ không chân thực bằng Hồ Xuân Hương. Bởi bà đã trải qua nhiều bi kịch trong cuộc đời, nỗi đau đớn ấy đều lắng đọng trên trang thơ sắc sảo của Hồ Xuân Hương mà không ai có thể thay thế được. Nhờ đi qua những sóng gió trong cuộc đời nên tác giả là người có chung tiếng nói và nỗi lòng với phụ nữ thời ấy Nhà thơ từng trải qua hai lần làm lẽ nên bà thấu hiểu được cảm giác của những người phụ nữ cùng cảnh ngộ. Trong bài Lấy chồng chung, Hồ Xuân Hương đã thể hiện rất rõ nỗi niềm chua xót ấy, đồng thời bà cũng lên án chế độ đa thê của xã hội phong kiến. “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, Chém cha cái kiếp lấy chồng chung. Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ, Một tháng đôi lần có cũng không. Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng, Cầm bằng làm mướn mướn không công. Nỗi này ví biết dường này nhỉ, Thời trước thôi đành ở vậy xong.” – Lấy chồng chung Theo Hồ Xuân Hương thì việc làm lẽ là vô cùng tệ bạc và bất công đối với người phụ nữ. Bà đã kể ra những nỗi khổ khi làm lẽ và cho rằng đó như làm mướn không công cho thấy sự bi phẫn tột độ, kịch liệt lên án chế độ hôn nhân thời ấy. Xã hội phong kiến hà khắc khiến cho người phụ nữ phải luôn chịu đủ mọi thiệt thòi, họ quan niệm rằng đàn bà chưa chồng mà có con như phạm đại tội, bị cạo đầu bôi vôi suốt đời không xuất giá, thậm chí là phải chết. Nhà thơ vô cùng bi phẫn trước những quan niệm hà khắc của xã hội phong kiến Vậy mà đối với Hồ Xuân Hương, bà không những không lên án mà còn cất tiếng nói bênh vực họ. Bởi lẽ nhà thơ nhìn thấy được vẻ đẹp thật sự của những người phụ nữ ấy, đó là thiên chức của người mẹ không thể bỏ con mình. “Không chồng mới chửa ấy mới ngoan, Có chồng mà chửa thế gian sự thường.” – Không chồng mà chửa Mặc dù người phụ nữ phải chịu nhiều bất công và đau khổ như vậy nhưng họ vẫn giữ được sự hiền dịu và nhu mì vốn có của mình. Nhà thơ đã mượn hình ảnh bánh trôi nước để miêu tả vẻ đẹp ngoại hình lẫn phẩm chất của người phụ nữ. Bài thơ Bánh trôi nước được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 7 Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, Hồ Xuân Hương đã sử dụng ngôn từ một cách điêu luyện để thể hiện sự thông cảm và niềm tự hào đối với vẻ đẹp và tính cách của người phụ nữ Việt Nam. Bà đã để lại nhiều bài thơ có giá trị nghiên cứu ở cả nội dung lẫn nghệ thuật nhờ tài năng và những bất hạnh trong cuộc đời mình. Qua nhiều tác phẩm giàu tính nhân đạo ấy, Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam. Hồ Xuân Hương được suy tôn là bà chúa thơ Nôm Thơ Hồ Xuân Hương thường được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, thủ pháp vô cùng điêu luyện nhưng chữ Nôm lại có nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán. Bà được Xuân Diệu suy tôn là bà chúa thơ Nôm bởi những tác phẩm xuất sắc và tư tưởng mới mẻ của mình. Hồ Xuân Hương được xem là nhà thơ người kế thừa và phát huy tinh hoa của văn học dân gian một cách triệt để, điển hình nhất là ở hai câu thực trong bài Không chồng mà chửa. “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu sao đà nảy nét ngang.” – Không chồng mà chửa Nhà thơ đã mượn nghệ thuật chơi chữ với các chiết tự Hán làm cho câu thơ trở nên đa nghĩa, góp phần thể hiện nội dung trữ tình đặc sắc. Bên cạnh đó, thơ của Hồ Xuân Hương còn được các nhà phê bình nước ngoài đánh giá cao ở đặc sắc nghệ thuật đố thanh giảng tục để lên án xã hội phong kiến. “Mát mặt anh hùng khi tắt gió, Che đầu quân tử lúc sa mưa. Nâng niu ướm hỏi người trong trướng, Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?“ – Vịnh cái quạt I Nhà thơ đã mượn hình ảnh cái quạt để ca ngợi vẻ đẹp người thiếu nữ và miêu tả khát vọng phàm tục của những người đàn ông, bà không xem họ là hiền nhân quân tử chuẩn mực của xã hội mà chỉ đơn giản là kẻ phàm phu tục tử cũng có ham muốn trước cái đẹp. Bà là người thẳng thắn vạch rõ bộ mặt gian trá của những chuẩn mực đương thời Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ trào phúng khi bà cất tiếng cười khinh bỉ lên các tầng lớp thống trị bấy giờ. Bọn vua chúa quyền lực suy cho cùng thì cũng chỉ là những kẻ háo sắc, thích trêu hoa ghẹo nguyệt và xem phụ nữ là trò tiêu khiển của mình. “Càng nực bao nhiêu thời càng mát, Yêu đêm chẳng chán lại yêu ngày. Hồng hồng má phấn duyên vì , một cái này.” – Vịnh cái quạt Hồ Xuân Hương còn là một trong những nhà thơ có công trong việc Việt hóa thể thơ Đường luật vì bà không tuân theo hệ thống ước lệ của thơ cổ mà đột phá theo cách riêng của mình. Khi tìm đến bài Tự tình II thì sẽ bắt gặp được những từ ngữ vô cùng bình dị, khác xa với ngôn từ uyên bác mà thơ Đường quy định, nó có sức gợi hình độc đáo và mới mẻ. Bài thơ Tự tình II được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 11 Có lẽ vì vậy mà khi bàn về Hồ Xuân Hương, nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra nhận định “Lòng Xuân Hương có lửa, tay Xuân Hương có điện, nên các chữ đều sống cả lên, nó có thể bò lổm ngổm, có thể mấp máy, có thể bay, có thể duỗi, có thể khom khom, ngửa ngửa, nó có thể chũm chọe, hi ha, cốc om, khua, vỗ, nó có thể um, xoe, xóe, loét, rì; nó có thể nối nhau thành chuỗi vần vang động bom, chòm, om, mòm, tom, hoặc ọp ẹp heo, leo, kheo, teo, lèo; chúng ta có thể đố ai tìm được trong thơ Hồ Xuân Hương những chữ nào mà âm thanh bẹp dí, những chữ chết nào đứng trơ không cựa quậy ở trong câu. Đây không phải là kỹ thuật đâu! Đấy là tâm hồn truyền sức sống cho ngôn ngữ.” Hồ Xuân Hương thực sự là một tài năng thi ca xuất chúng của thời đại, bà không chỉ có những tư tưởng vượt ra khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến mà còn phá cách trong lối làm thơ. Những điểm độc đáo và mới mẻ trong thơ Hồ Xuân Hương không những giúp cho văn đàn Việt Nam trở nên phong phú mà còn góp phần vào việc nghiên cứu của các nhà phê bình. Hồ Xuân Hương thực sự xứng danh bà chúa thơ Nôm của Việt Nam. Ngàn thu vẫn lưu danh hậu thế Hồ Xuân Hương còn là một nhân vật vô cùng bí ẩn, có những câu hỏi xoay quanh cuộc đời của bà qua nhiều năm tìm tòi và nghiên cứu vẫn chưa tìm ra được kết quả chính xác. Có giai thoại cho rằng Hồ Xuân Hương từng là tình nhân của đại thi hào Nguyễn Du qua bài thơ mà bà viết như sau “Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung, Mượn ai tới đấy gửi cho cùng. Chữ tình chốc đã ba năm vẹn, Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập, Phấn son càng tủi phận long đong. Biết còn mảy chút sương đeo mái, Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng trong.” Bài thơ có lời đề từ là gửi Hầu Nghi Xuân Tiên Điền Nhân tức là Nguyễn Du, theo các nhà phân tích thì họ có mối tình kéo dài đến ba năm nhưng đó cũng chỉ giả thiết. Bởi câu chuyện của họ không có sách vở nào ghi chép và nó đã trôi qua hàng trăm năm khiến cho việc tìm kiếm vô cùng khó khăn. Dẫu vậy thì Hồ Xuân Hương vẫn là một nhà thơ lớncủa nữ quyền thời phong kiến trong văn học trung đại Việt Nam. Sự sáng tạo trong phong cách thơ ca đã giúp Hồ Xuân Hương được tôn bà chúa thơ Nôm của dân tộc Việt. Hồ Xuân Hương là tượng đài bất tử của thơ Việt Những tác phẩm của bà có những đóng góp rất lớn cho việc nghiên cứu, các bài thơ được đưa vào chương trình Ngữ văn để bạn đọc có thể cảm nhận những cái hay cái đẹp của nghệ thuật ngôn từ và nội dung giàu tính nhân đạo, từ đó sẽ tự hào về một thời đại từng có Hồ Xuân Hương tài năng như thế! Thúy Trân

thơ trào phúng hồ xuân hương